Truyện Của Hướng Dẫn Viên

  • Home
  • Truyện Của Hướng Dẫn Viên

Truyện Của Hướng Dẫn Viên Nơi mô tả tên gọi, văn hoá, con người gắn với địa danh trên đường tour
Nơi lưu lại những kỹ năng bản thân trong thời gian làm việc.

Hy vọng sẽ giúp ích phần nào cho ace hướng dẫn viên lướt qua!

Không lẽ đi làm xã hội đen!
12/01/2024

Không lẽ đi làm xã hội đen!

29/12/2021

Đường vào tim em hai lớp áo
trời mùa đông a muốn cho tay vào
Áo em sao ăn mặc phòng phành.,.

04/07/2021

VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH
Nhiều người đã nghe nói tới Vạn Lý Trường Thành, công trình nhân tạo dài nhất thế giới, nhưng có những sự thật thú vị mà không phải ai cũng biết.

1. Mọi người nghĩ chiều dài của Trường Thành là khoảng 6.276 km, nhưng thực tế toàn bộ công trình này dài tới 8.851 km. Khoảng 6.276 km là chiều dài của phần tường thành do con người xây dựng, nhưng tường thành này còn bao gồm cả các hào và tường chắn tự nhiên.

2. Việc xây dựng Trường Thành kéo dài hơn 2.000 năm. Những phần đầu tiên được xây dựng vào đầu thế kỷ VIII trước Công Nguyên.

3. Trước kia, Trường Thành đã có nhiều tên gọi khác nhau như “rào chắn”, “pháo đài” hay “Rồng Đất”... Đến thế kỷ 19, công trình này mới chính thức được đặt tên là “Vạn Lý Trường Thành”.

Tổng chiều dài của Vạn Lý Trường Thành lên tới 8.851 km.
4. Dù Trường Thành đã tồn tại hơn 2 thiên niên kỷ, người châu Âu đầu tiên đặt chân tới đây là nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha tên Bento de Gois vào năm 1605.

5. Lời đồn đại rằng loại vữa dùng để xây Trường Thành được trộn xương người là hoàn toàn không có thật. Vữa dùng để xây công trình dài nhất thế giới này bao gồm nhiều loại vật liệu khác nhau tùy từng thời, từ đất sét, đá, gạch vụn, gỗ tới đá vôi...

6. Vài phần của Trường Thành được bảo tồn và phục chế, nhưng phần lớn đều đã hoang phế. Từng có thời gian người dân gỡ gạch đá của Trường Thành để xây nhà.

7. Việc xây dựng Trường Thành chính thức chấm dứt vào năm 1644 khi vị vua cuối cùng của triều Minh bị phế truất. Từ đó Trường Thành không được xây thêm mà chỉ có các hoạt động trùng tu.

8. Nơi rộng nhất của tường thành là 30 m, nơi cao nhất là 3,65 m. Điểm cao nhất của Trường Thành (đỉnh tháp canh) là 7,9 m.

Hàng trăm ngàn người đã tham gia xây dựng công trình dài nhất hành tinh này.

9. Ước tính số người tham gia xây dựng công trình này lên tới 800.000 người.

10. Nhiều người tin rằng có thể nhìn thấy Vạn Lý Trường Thành từ trên mặt trăng, nhưng giống như nhìn một sợi tóc từ khoảng cách 3 km, điều đó là không thể. Trên thực tế, ta không thể nhìn thấy nó ngay cả ở khí quyển trái đất, tại độ cao 160.000 m.

11. Vạn Lý Trường Thành không chỉ là để chống lại quân xâm lược mà còn đóng vai trò như một đường biên giới, nơi thực hiện các luật lệ về giao thương và di cư.

12. Theo truyền thuyết, một con rồng đã chỉ hướng xây dựng Trường Thành cho người Trung Quốc. Nhiều người còn cho rằng bản thân Vạn Lý Trường Thành đã mang hình dáng của một con rồng nằm trên rặng núi.

13. Vạn Lý Trường Thành còn được mệnh danh là “nghĩa trang dài nhất thế giới” vì hàng trăm ngàn người đã chết trong quá trình xây dựng. Một số người được chôn ngay dưới móng tường thành.

14. Là một phần quan trọng của văn hóa Trung Quốc, xung quanh Vạn Lý Trường Thành có rất nhiều huyền thoại. Một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất là chuyện về Mạnh Khương Nữ, vợ một thư sinh bị bắt đi xây Trường Thành vào thời nhà Tần. Đến mùa đông, Mạnh Khương Nữ đan áo cho chồng và đã lặn lội tìm chồng để trao áo. Mạnh Khương Nữ đã đi khắp theo chiều dài của Trường Thành, hỏi thăm nhiều người và cuối cùng nhận được hung tin chồng mình bị chết vùi thây dưới Trường Thành. Nàng Mạnh Khương đau buồn khóc lóc thảm thiết 3 ngày 3 đêm, nước hòa lẫn máu. Tiếng khóc của Mạnh Khương vang xa 800 dặm Trường Thành, làm sụp đổ một khúc thành, để lộ xác chết của chồng mình. Nàng an táng cho chồng xong liền nhảy xuống biển tự vẫn. Ngày nay, tại quận Sơn Hải Quan, tỉnh Hà Bắc có miếu thờ Mạnh Khương Nữ.

15. Vạn Lý Trường Thành là điểm tham quan nổi tiếng và đông khách nhất Trung Quốc, với hàng chục triệu lượt khách mỗi năm.

04/07/2021

Bài Tây Tạng của Trung thành
từ độ cao 7700 mét ta có thể nhìn được những dòng hợp lưu của các kênh rạch tạo thành dòng sông nổi tiếng, từ đỉnh núi tuyết Ngân Sơn. Dòng sông Tsangpo bắt nguồn từ đỉnh tuyết Tu di (núi thiêng Kailash), được chảy từ Đông sang Tây, dọc sườn đồi Hy-mã-Lạp Sơn (Himalaya) đổ vào Vịnh Bengal, phóng thính một lượng nước thật sâu và chảy ra nhiều nhánh, bắt nguồn dòng nước này chảy vào các con sông như: Sông Dương Tử, sông Hoàng Hà, sông Ấn, sông Hằng, sông Mê Kông mà nhánh sông này được chảy vào để trổ mạch, qua dòng sông Cửu Long Việt Nam, mang theo phù sa và nhiều hệ thống sinh vật trở về đây cho cuộc sống trường lưu. Rồi cùng có nhánh chảy qua nguyên dòng Brahmapu- 20

tra vào Ấn Độ Dương mà nơi này Yarlung Tsangpo chính là các vị Vua Tây Tạng xây dựng cơ đồ, dòng sông Yarlung Tsangpo chảy vào Tây Tạng 1200 km, băng qua những ngọn núi tuyết. Từ độ cao 3700m là những ngọn đồi thấp thoáng thủ phủ Lhasa.

1. TỪ NGUYÊN TRONG TIẾNG TẠNG
Từ Nguyên trong tiếng Tạng gọi vùng đất này là Bod བོད nghĩa là trung bộ quanh Lhasa, nay được gọi là U trong tiếng Tạng.
Từ Tây Tạng, tiếng Hán bắt nguồn từ việc hoán dụ tên khu tự trị T sang quanh Shigatse cộng thêm vấn đề văn hóa, ngôn ngữ, từ đó có tiếng Tạng đi vào đời.
Tây Tạng tại Trung Hoa này thường chỉ giới hạn trong khu Tự trị Lhasa Tây Tạng, tiếng Tạng được có từ thời Gia Khánh Đế (1796 - 1820)18. Tiếng tên Thổ phồn có từ thế kỷ VII Lý Thái, vào thế kỷ X do Đường Thư mô tả sứ thần 608 - 609 bởi Tán Phổ Nang Nhật Luân phái sang Tùy Dạng Đế. Theo tiếng Hán cổ do William H.Bax- ter tái dựng. Thổ phồn đọc theo Thuxphjon có một số tiếng Hán khác dùng Tây Tạng được bao gồm Ô Tư Quốc, Ô Tư Lạng, Ô Tư Bố Bá Đặc, Đường Cổ Thắc.
2. NGÔN NGỮ
Tiếng Tạng: Có những địa phương ngôn ngữ khác nhau, đôi khi họ không hiểu ngôn ngữ của nhau bởi địa lý phân bổ vùng miền, có vùng thì trên sườn núi của dãy Himalaya, có vùng thì xuyên qua nhiều quốc gia khác.
Ngôn ngữ tiếng Tạng cũng có nhiều nguồn tư liệu theo hệ thống Hán - Tạng. Mặt khác, tiếng Tạng tương đồng âm sắc với tiếng Miến Điện thuộc những vùng cao Đông Nam Á. Trên cao nguyên Tây Tạng, Bhutan cùng một số dân tộc Nepal, Bắc Ấn Độ như S*kkim…, tất cả những ngôn ngữ trên đều tập trung tại Lhasa, trung tâm ngôn ngữ của Tây Tạng. Một số vùng được sử dụng ngôn ngữ riêng biệt do địa lý khác nhau như: DzongKha, S*k- kim, Sherpa, Ladakh…
Vào thế kỷ VII Vua Tùng Tán Cang Bố (Songtsän Gam- po) đã cử sứ giả là quan Đại Thần Thun-Mi-Sang-Pu-Cha sang tận Ấn Độ học thêm tiếng Phạn văn (Sanskrit) và dùng mẫu tự Devanagari để sáng tạo hơn 30 mẫu ký tự của Tây Tạng.
Ta thấy, do thời gian biến chuyển về hoàn cảnh địa dư nhưng Tây Tạng vẫn dùng chung tiếng Ladakhi và tiếng Dzongkha để nói và viết, các chiết tự ngữ ngôn này xuất phát từ chữ Brāhmī từ Ấn Độ cổ xưa.
Ngày nay, trên đất nước này đều dùng tiếng phổ thông là tiếng Trung.
Tuy nhiên, người Tạng du mục nói tiếng Tạng thật rành mạch, khi anh Tenzin giao tiếp các vị du mục, anh nói tiếng Tạng, anh còn nói được cả tiếng Anh - ngôn ngữ thông dụng trên toàn thế giới, tiếng Pháp và tiếng Trung nữa.
3. LHASA TÊN GỌI LÀ
Lạp Tát19 (Là Sà) là thủ đô truyền thống Tây Tạng, ngày nay là thủ phủ của Tây Tạng, thuộc vùng đỉnh Gephel. Trung tâm văn hóa tín ngưỡng Tôn giáo Phật. Thành phố gồm 255.000 dân, là thành phố cao nhất thế giới ở vùng núi tuyết, có nghĩa là nơi ở thần linh, các tư liệu cổ gọi là Rasa nghĩa là nơi ở triều đình.
Lạp tát (拉薩, Tib. Lha-sa). Cũng gọi là Lạp tát, Lạp tán, La ta. Thủ phủ Tây tạng, nằm bên bờ sông Lạp tát, chi nhánh của sông Nhã lỗ tạng bố (Tib. Yar- gtsaṅ-po), phía bắc núi Hi mã lạp nhã, do vua Khí tông lộng tán (Tib. Sroṅ-btsan - sgam-po) xây dựng vào năm 639 CN. Lha-sa nằm trên vùng cao nguyên, cao hơn mặt biển 3600 mét, dân cư đông đúc, phố xá sầm uất, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Tây tạng, đồng thời cũng là trung tâm tín ngưỡng của tín đồ Lạt ma giáo. Phía bắc Lạp tát có cung Bố đạt lạp (Tạng: Potala), là nơi ở của Pháp vương. Ở chính giữa Lạp tát có chùa Đại chiêu rất cổ kính, là ngôi chùa nổi tiếng của Tây Tạng. Phía ngoài cửa chùa có tấm bia Đường Phồn Hòa Minh (Liên minh hòa bình giữa Trung Hoa và Tây tạng), cao khoảng 5 mét, được dựng vào năm Trường Khánh thứ 3 (823) đời vua Đường mục tông. Phía tây bắc Lạp tát có chùa Tiểu Chiêu và phía tây có chùa Biệt Bạng, là chỗ ở của cựu Pháp vương, có 1 khu vườn để các Lạt ma tránh nắng. Tăng chúng trong chùa này phần nhiều là người Mông Cổ. Phía đông Lạp tát có chùa Sắc Lạp, nơi có tòa tháp hoàng kim và cây chày kim cương nổi tiếng. Lại có chùa Cam Đan, chỗ ở của ngài Tông Khách Ba, khai tổ của phái Hoàng Mạo thuộc một trong 4 trường phái tu tập lớn tại Tây Tạng, nổi tiếng với pho tượng Phật Di lặc và tượng ngài Tông Khách Ba. Ngoài ra, trong Lạp tát còn có 30 ngôi chùa lớn và vô số chùa viện nhỏ.
4. ĐỊA LÝ, KHÍ HẬU
Địa lý tại vùng đất thiêng được chia ra nhiều khu vực: Lhasa là vùng đồi núi bao phủ xung quanh một diện tích khá lớn gần 30.000 km2. Khu vực trung tâm rộng hơn 544 km2, tổng dân số gần 500.000 người, trong đó 250.000 người dân là ở khu vực nội thành. Lhasa là nơi hội tụ nhiều tộc người như: người Tạng, người Hán, người Hồi và nhiều sắc tộc khác nhau. Trong đó, người Tạng chiếm hơn 87% dân số trên. Ngày nay Lhasa biết đến với địa danh Tây Tạng nằm trên vùng cao nguyên, khu vực cao nhất thế giới, tại miền Bắc Tây Tạng, nơi đây cao hơn so với trung bình mặt nước biển tới 4572 ft (1500 m). Đỉnh Ever- est nằm gần biên giới Tây Tạng và Nepal. Khu vực Lhasa phân bố địa hình nằm ở gần đấy trong một lưu vực nhỏ bao phủ bởi các dãy núi với độ cao 3650 m (12.000 ft) phân bổ tại trung tâm đồng bằng Tây Tạng. Các dãy núi phủ tuyết trắng xung quanh trên độ cao 5500 ft (1800 m).
Với địa lý khí hậu hanh khô suốt 9 tháng trong một năm, các hẻm núi phía Tây nhận được một lượng tuyết khá lớn. Với khí hậu, nhiệt độ thấp chủ yếu trong các khu vực xung quanh, một mặt sự hoang vắng, lạnh lẽo, quạnh hiu bởi vì chưa có những cây cổ thụ mọc mà toàn là đá và tuyết trên các sườn đồi. Khí hậu gió thấp thổi vào thì làm đồng bằng khô cạn, vì sự mênh mông trơ trọi không có vật cản ngăn. Tuy nhiên, gió mùa từ Ấn Độ đang gây ra một số thiệt hại, ảnh hưởng rất lớn đến phía Đông Tây Tạng còn phía Bắc Tây Tạng có nhiệt độ cao trong mùa hè và lạnh cắt da trong mùa đông giá tuyết, nhiệt độ trung
bình 8oC (43 độ F). Khu Lhasa nhận gần 3000 giờ nắng mặt trời trong một năm, du khách thường gọi nơi đây với cái tên thân mật là thành phố ánh nắng. Lượng mưa trung bình tại Lhasa khoảng 500mm, các vùng phân bổ chủ yếu vào tháng 7,8,9. Người Tạng nói rằng họ rất thích hai mùa trong năm đó là mùa hè và mùa thu vì có những cơn mưa bất chợt nên rất tốt trong năm, mưa thường xảy ra vào ban đêm, còn ánh mặt trời ban ngày thì nhiều hơn. Lhasa được chia thành các khu sau:
- Amdo (A’mdo) ở phía Bắc được sát nhập vào các tỉnh Thanh Hải, Cam Túc, Tứ Xuyên tại Trung Hoa và
phía Đông Tây Tạng.
- Kham (Khams) ở phía đông một phần lãnh thổ Tứ Xuyên, bắc Vân Nam, một phần Thanh Hải. - Tây Kham là phần quản lý tại Tây Tạng.
- U (dbus) ở trung tâm thuộc một phần Tây Tạng.
- Tsang (gtsang) ở phía Tây nằm tại Tây Tạng. Ta thấy rằng, các khu vực Tân Cương, Thanh Hải, Tứ Xuyên nằm phía Bắc và Đông của Khu tự trị. Vùng biên giới ở phía Ấn Độ tại khu vực phía Nam với cung đường Mc-Mahon tại Nam Tây Tạng và Aksaichin ở phía Tây đang còn uẩn khuất giữa các nước, nhất là Trung Hoa và Ấn Độ. Các vùng lân cận tại phía Nam như: Myanma, Bhutan và Nepal. Khu tự trị cũng có danh giới phía Đông Nam tại tỉnh Vân Nam. Ta có thể nhận biết, khu vực Tây Tạng ngày nay được phân bổ theo những lưu vực: “Lưu vực hồ” và nằm phía Tây và đến Tây Bắc, còn “Lưu vực sông” trải dài phía Đông, Nam và Tây. Các lưu vực trên đều nhận từ nguồn mạch lượng mưa khiêm tốn từ dãy Himalaya bị chắn tại phía Nam. Trái lại trên các khu vực trơ ra tương phản với vùng đất này và ảnh hưởng đặc biệt từ nguồn nước nên văn hóa thật khác biệt do nét phân bổ lưu vực sông và hồ.
Bởi vì, lưu vực hồ là nơi sinh trưởng sinh sống của dân cư du mục (du canh, du cư). Còn lưu vực sông là nơi các tộc người Tạng, Hán, Mãn, Mông định cư để trồng trọt, nông nghiệp (định canh, định cư). Các ranh giới phía Nam thuộc dãy núi Himalaya, phía Bắc có một hệ thống núi khá lớn, ít tạo ra các hốc núi riêng biệt vì các hẻm núi khá sâu. Các hệ thống núi là khởi nguồn từ ba con sông lớn là: 28

* Sông Ấn (Sindh darya): Dòng sông này bắt nguồn từ Tây Tạng, chúng chảy từ dãy Himalaya theo hướng Đông Nam lên Tây Bắc, qua Kashmir trở về hướng Nam chếch Tây Nam. Sau đó, nối sông Panjnad tại Mithankot chảy qua Hyderabad nó kết thúc tại khu vực đồng bằng châu thổ phía Nam Karachi, độ cao từ 2900 đến 3200 km, xuất phát từ nền văn minh cổ đại nên sông Ấn ảnh hưởng tại vùng đất này rất lớn, liên hệ đến sông Hằng của Ấn Độ ngày nay.

* Khu hành chính: Khu vực hành chính tại Lhasa là một đô thị thủ phủ Tây Tạng là Khu tự trị của Trung Hoa gồm những đơn vị hành chính cấp địa phương, trong đó thành phố Lhasa là cấp địa thị còn bảy đơn vị, cấp còn lại được phân bố thành 73 đơn vị cấp châu, huyện trong một huyện cấp thị:
- Lhasa tức Lạp Tát, thủ phủ thành quan, dân số
599.423 người, diện tích tổng thể 31.662 km2.
- Bảy Địa khu kế tiếp trong đó gồm:
+ Ngari20 (A Lý) thủ phủ Cát Nhĩ, dân số 95.465 người, diện tích tổng thể 304.000 km2.
+ Nagqu21 (Na Khúc) thủ phủ Nagqu, dân số 462.382 người, diện tích 450.537 km2.
+ Qamdo22 (Xương Đo) thủ phủ Qamdo, dân số
657.505 người, diện tích 110.154 km2.
+ Shigatse (Nhật Khách Tấc) thủ phủ Shigatse, dân số
703.292 người, diện tích 182.000 km2.
+ Lhoka (Sơn Nam) thủ phủ Nãi Đông, dân số 328.990 người, diện tích 79.700 km2.
+ Nying chi (Lâm Tri) thủ phủ Nying Chi, dân số
195.109 người, diện tích 116.175 km2.

5. DÂN SỐ
Dân số tại Tây Tạng, nơi vùng đất thiêng, có dân số khoảng 521.500 trong đó ước tính 257.400 là khu vực nội thành, và 264.100 là ở khu ngoại thành Tây Tạng. Ta thấy rằng mật độ tại Lhasa quá thấp nhưng người Tạng chủ yếu phân bổ tại vùng núi hiểm trở. Tính đến năm 2000 có 92,8 % cư dân người Tạng tại Khu tự trị Lhasa (bộ nhóm dân tộc này theo Đạo Phật và một số ít theo Đạo Bon, còn đa số là nhập cư của người Hán 61% dân số). Tây Tạng có những tộc người từ trước đến nay như: Người Tạng, người Salar, người Hồi, người Monpa, người Mông Cổ, người Hán, người Sila (Tạng Miến), người Hà Nhì (Tạng Miến).

6. NGƯỜI TẠNG
Có đôi mắt ướt, họ luôn có nét buồn trên khuôn mặt, họ sống đúng với bản tâm, không tham cầu danh vọng, họ luôn đi tìm vị Bổn tôn, vị đạo sư tiền kiếp của họ, họ thân thiện và vui tính, pháp tu lúc nào cũng dùng câu mật chú Chuyển Kim Luân (Um Ma Ni Bat Me Hum)23. Người Tạng thường mặc quần áo bằng lông cừu và lông trâu yak, trang sức rực rỡ. Các nghiên cứu cho thấy người Tạng sống trên các triền núi tuyết có một nhiễm sắc thể khá đặc biệt gồm 2 gene. Gene Egln1 trên tuyến nhiễm sắc thể 1 và gene ppara trên tuyến nhiễm sắc thể thứ 2. Từ đây, người Tạng được cân bằng và giữ các tuyến mồ hôi trên núi tuyết xứ lạnh. Mạch máu của họ rộng và mang nhiều lớp ôxy chống lại độ cao nơi vùng đất xứ tuyết. Chính vì vậy mà họ trở về lòng đất từ tâm nơi ngàn xưa núi tuyết kinh cầu. Nét đặc thù di truyền học của người Tạng sống trên độ cao trong thời kỳ tiền sử gần 3000 năm về trước với khả năng thích nghi rất cao, họ biết cách khắc phục cơ thể, lưu chuyển đi lại, hát ca và múa để cơ thể lưu thông các tuyến ôxy. Mặc dù vừa làm vừa hoạt động, họ luôn thể hiện tâm tươi cười, để dòng máu lưu thông từ tuyến. Trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng do sự đột biến gen mà người Tạng thích nghi sống ở độ cao. Do sự phân bổ nhóm nhiễm sắc thể D - M 174 ở các vùng dân tộc Trung Á gần Đông Bắc Á cùng biên giới Nga, cũng có sự đột biến D - M 174 xảy ra cho người Tạng để thích nghi vùng cao nơi mà thời xa xưa người Tạng đã sống trên vùng núi tuyết.

04/07/2021

LONG SINH CỬU TỬ!!!

Theo "Hoài Lộc Đường Tập" của Lý Đông Dương (李东阳, 1447-1516), "Long Sinh Cửu Tử" lần lượt là: Tù Ngưu, Nhai Xải, Trào Phong, Bồ Lao, Toan Nghê, Bí Hí, Bệ Ngạn, Phụ Hí, Li Vẫn/Si Vĩ.
Còn theo "Thăng Am Ngoại Tập" của Dương Thận (杨慎, 1488-1559) thì đó là: Bí Hí, Li Vẫn/Si Vĩ, Bồ Lao, Bệ Ngạn, Thao Thiết, Công Phúc, Nhai Xải, Toan Nghê, Tiêu Đồ.
1. Bí Hí – Con trưởng thân rùa gánh nặng đội bia
Bí Hí là con trưởng của Rồng. Còn có tên khác là Quy Phu, Điền Hạ hay Bá Hạ. Linh vật có hình dáng thân rùa, đầu rồng, có sức mạnh vượt bậc, chịu được trọng lượng lớn nên thường được chạm khắc trang trí làm bệ đỡ cho các bệ đá, cột đá, bia đá...
Tuy nhiên ở Việt Nam người ta lại dùng rùa để đội bia, do gắn với nhiều truyền thuyết lâu đời của dân tộc (?)
2. Si Vẫn – Đầu rồng mình cá đạp sóng hô mưa
Con thứ hai của rồng, còn được gọi là Si Vĩ, Li Vẫn, mình cá, đầu rồng, miệng rộng, thân ngắn. Nó vốn là con vật huyền thoại Makara trong văn hóa Ấn Độ chuyên sống ở dưới nước, đầu thú (đầu voi hoặc đầu cá sấu…), phần sau là đuôi cá. Makara là vật cưỡi của Ganga - chúa tể sông Hằng và Varuna - chúa tể biển cả.
Lý giải về ý nghĩa của hình ảnh Si Vẫn, có một truyền thuyết mà trong sách Thái bình ngự lãm của Lí Phường đời Bắc Tống có ghi chép và kể lại rằng: “Vào đời Hán, sau khi điện Bách Lương bị hỏa hoạn, có người thầy mo đất Việt nói rằng: Ngoài biển có con Ngư cù (rồng cá), đuôi giống đuôi con si (cú), đập sóng mà làm mưa. Vua Hán Vũ Đế bèn tạc tượng con thú ấy để yểm hỏa tai”.
Loài này có miệng to, thích nuốt, nên người ta hay đắp hình hai con Si Vẫn há to miệng nuốt hai đầu nóc mái nhà, vừa có giá trị trang trí, vừa hàm ý nó có thể tạo mưa, tránh hỏa hoạn cho công trình kiến trúc.
3. Bồ Lao – Uốn cong mình gánh chuông chùa vang vọng
Bồ Lao là con thứ ba của Rồng. Nó có hình dạng như con rồng đang cong mình. Nó vốn sống ở ven biển, là con của rồng mà lại rất sợ cá kình (cá voi), nên mỗi khi bị cá kình tấn công thì lại bỏ chạy kêu thét. Người ta thấy vậy cho là nó thích kêu thét, thích những âm thanh lớn. Vì thế, nó thường được đúc trên quai chuông hàm ý tiếng chuông sẽ được lớn và vang xa như tiếng Bồ lao kêu thét vì sợ cá kình.
4. Bệ Ngạn – Dáng hổ nanh dài trấn giữ pháp đường nhà ngục
Bệ Ngạn là con thứ tư của Rồng. Còn có tên gọi khác là Hiến Chương. Linh vật có hình dáng giống hổ, răng nanh dài và sắc, có sức thị uy lớn, thích lý lẽ và có tài cãi lý đòi sự công bằng, nhờ vậy Bệ ngạn thường được đặt ở cửa nhà ngục hay pháp đường, ngụ ý răn đe người phạm tội và nhắc nhở mọi người nên sống lương thiện.
5. Thao Thiết – Mắt to miệng rộng đúc trên đồ vật ăn uống
Thao Thiết là con thứ năm của Rồng. Linh vật có đôi mắt to, miệng rộng, dáng vẻ kỳ lạ, có tính tham ăn vô độ nên được đúc trên các đồ dùng trong ăn uống như ngụ ý nhắc nhở người ăn đừng háo ăn mà trở nên bất lịch sự.
6. Công Phúc – Thích nước cai quản thuyền bè cầu đập
Công Phúc là con thứ sáu của Rồng. Linh vật này thích nước nên được khắc làm vật trang trí ở các công trình hay phương tiện giao thông đường thủy như: cầu, rãnh dẫn nước, đập nước, bến tàu, thuyền bè… với mong muốn công phúc luôn tiếp xúc, cai quản, trông coi lượng nước phục vụ nhân dân.
7. Nhai Xải – Khát máu dữ dằn chạm khắc trên binh khí
Con thứ bảy là Nhai xải, tính thích giết chóc, nên đứng ở cườm đao. Nó trông như chó sói có sừng rồng, hai sừng mọc dài dọc về phía lưng, ánh mắt dữ dằn, thích đánh nhau giết chóc. Vì thế, người ta hay chạm khắc Nhai xải ở các binh khí như cán đao, cườm kiếm, đầu búa, đầu côn, thuẫn… vừa để trang trí, làm đẹp mắt, vừa biểu thị ý nghĩa hiếu chiến, hiếu sát của loài này, đồng thời tăng tính sát thương của binh khí.
8. Toan Nghê – Sư tử đầu rồng thích tĩnh lặng nghiêm trang
Toan Nghê là con thứ tám của Rồng. Linh vật có mình sư tử, đầu rồng, thích sự tĩnh lặng và thường ngồi yên, nên được đúc làm vật trang trí trên các lò đốt trầm hương, ngụ ý mong muốn trầm hương luôn tỏa ngát.
Tuy nhiên Toan Nghê sang Việt Nam đã chuyển hóa thành một hình dạng khác và thường gọi vắn tắt là Nghê (!)
9. Tiêu Đồ - Lười biếng cuộn tròn chạm khắc trên cửa nhà
Tiêu Đồ là con thứ chín của Rồng. Linh vật có tính khí lười biếng, thường cuộn tròn nằm ngủ, không thích có kẻ lạ xâm nhập lãnh địa của mình, nên thường được khắc trên cánh cửa ra vào, ngay vị trí tay cầm khi mở, ngụ ý răn đe kẻ lạ muốn xâm nhập, nhằm bảo vệ sự an toàn cho gia chủ.
* Ngoài 9 linh vật nói trên, gia đình Rồng còn có một số linh vật khác như:
10. Tù Ngưu – Giỏi âm luật mê nhạc khí
Tù Ngưu: Linh vật giỏi về âm luật nên thường được chạm trên các nhạc cụ, nhạc khí...
11. Phụ Hí – Giữ bia mộ bảo vệ người đã khuất
Phụ Hí: Linh vật được chạm khắc trên các bia mộ, bài vị với ngụ ý bảo vệ mộ phần người đã khuất, ngoài ra Phụ hí còn chạm trên quai gánh
12. Kỳ Lân – Nửa rồng nửa thú có sừng nhưng từ tâm
Lân có đầu nửa rồng nửa thú, đôi khi chỉ có một sừng, do không húc ai bao giờ nên sừng này là hiện thân của từ tâm. Phần nhiều lân có sừng nai, tai chó, trán lạc đà, mắt quỷ, mũi sư tử, miệng rộng, thân ngựa, chân hươu, đuôi bò.
13. Thiên Lộc bảo vệ của cải - Tịch Tà trấn áp yêu ma
Tỳ Hưu lại là một linh thú có vẻ đầu Lân, thân gấu toàn thân được bao bao bọc bới lớp vẩy như rồng, trên đầu có sừng, lưng có cánh. Theo nhân gian truyền tụng, Tỳ Hưu có hai loại với tên gọi và ý nghĩa khác nhau.
Thiên Lộc: Đây là loại Tỳ Hưu có dáng vẻ uy phong, bụng và mông to, miệng rất rộng trên đầu có 2 Sừng. Thức ăn chính của Tỳ Hưu Thiên Lộc là Vàng, Bạc và Châu Báu. Ý nghĩa phong thủy của Tỳ Hưu Thiên Lộc là bảo vệ của cải, mang lại sự giàu sang cho gia chủ
Tịch Tà: Đây là loại Tỳ Hưu có miệng luôn há rộng vẻ ngoài luôn toát sự dữ tợn trên đầu có duy nhất 1 sừng trên đầu. Theo truyền thuyết Tỳ Hưu Tịch Tà thường dùng sừng của mình để tấn công các loại yêu ma, thức ăn của Tịch Tà chính là các sinh khí của yêu ma. Tịch Tà được xem là linh vật phong thủy mang xua đuổi tà ma, mang lại sự bình an cho gia chủ
14. Long Mã – Hóa thân của Kỳ lân đạp trên sóng nước
Một dáng hóa thân khác của kỳ lân là con long mã, bao giờ cũng được thể hiện chạy trên sóng nước (lấy từ tích Vua Vũ trị thủy).
15. Trào Phong – Chống hỏa hoạn thị uy kẻ xấu
Trào Phong: Linh vật thường được chạm khắc trên nóc nhà với ngụ ý chống hoả hoạn và thị uy kẻ xấu (gần giống với Si Vẫn).
16. Hống – Ngồi trên cao nhắc nhở việc triều chính
Hống hay còn gọi là Vọng Thiên Hống, là sinh vật giống Rồng và ngựa. Hống có vảy và biết bay, truyền thuyết kể lại rằng Hống là con của Rồng, có thói quen ngồi trên cao quan sát mọi thứ.
Chúng giống như bảo mẫu của Hoàng đế. Bất cứ khi nào Hoàng đế rời tẩm cung quá lâu để nghỉ ngơi, Hống sẽ gầm lên để Hoàng đế quay trở về lo việc triều chính. Nhiều người nghĩ Hống phản ánh thông điệp từ thiên thượng truyền xuống.

04/07/2021

TỪ HY THÁI HẬU -MÁY BAY BÀ GIÀ 73 NĂM VẪN CHẠY TỐT!
: Sưu tầm

Ở tuổi 26, Từ Hy đã trở thành một góa phụ gối chăn đơn chiếc, thế nên dã sử Trung Quốc đã đồn đại rất nhiều chuyện về chốn khuê phòng của người phụ nữ này, mặc dù đây là việc “tế nhị” mà chính sử không hề ghi lại.
Từ Hy Thái Hậu (1835 – 1908) xuất thân từ Mãn quân Tương Lam kỳ. Năm Hàm Phong (1851) nhập cung với thân phận phi tần, 6 năm sau sinh ra Tái Thuần (Hoàng đế Đồng Trị) và được phong là Quý Phi, đây cũng là địa vị cao nhất đến khi Hàm Phong Đế qua đời. Đồng Trị đế đăng cơ, bà được tấn phong Thánh mẫu Hoàng Thái Hậu, nhập vào Mãn quân Tương Hoàng kỳ (một trong 8 kỳ của nhà Thanh).

Ở tuổi 26, Từ Hy đã trở thành một góa phụ gối chăn đơn chiếc, thế nên dã sử Trung Quốc đã đồn đại rất nhiều chuyện về chốn khuê phòng của người phụ nữ này, mặc dù đây là việc “tế nhị” mà chính sử không hề ghi lại.

Theo những gì mà người ta đồn đại về Từ Hy thì vị Thái hậu này nổi tiếng khắp hậu cung về lối sống bê tha, dâm loạn. Trong đó có rất nhiều người nổi tiếng thời điểm đó cũng đã phải qua tay người phụ nữ nổi tiếng xinh đẹp này.
Người đầu tiên phải kể tới chính là Thân vương Cung Dịch, người mà ngay từ khi chưa vào cung, Từ Hy đã giam dâm. Đến khi được chọn vào làm cung tần trong hậu cung, người ta nói rằng cô gái mới 16 tuổi đó thường lợi dụng lúc mọi người không chú ý lẻn trốn chạy đến bên Thân Vương để thỏa mãn hoan lạc, thậm chí có người hoài nghi Hoàng Đế Đồng Trị vốn không phải là con đẻ của Hàm Phong, mà là con riêng của Từ Hy Thái Hậu với Thân Vương.
Đến khi ở trên đỉnh cao quyền lực thì Từ Hy lại khá chung tình với Vinh Lộc, người tình đầu tiên của bà. Theo dã sử thì chính Vinh Lộc đã cứu Từ Hy khỏi một vụ cưỡng hiếp nên cô gái này đã đem lòng thầm thương trộm nhớ vị ân nhân của mình. Từ đây mối quan hệ của cả hai được đâm hoa kết trái cho đến khi Từ Hy nhập cung. Vì tình yêu với Vinh Lộc mà vị Thái hậu này còn cho người tình tham gia xác định người kế thừa ngai vàng (tức Hoàng đế Quang Phổ). Sau này khi chạy trốn liên quân 8 nước, người tình chung thủy của Từ Hy cũng luôn sát cánh bên bà vượt qua rất nhiều hoạn nạn, đắng cay.
Tuy nhiên dường như chỉ một người tình không đủ đáp ứng “nhu cầu tình dục” quá cao nên người phụ nữ quyền lực này còn sở hữu cả những tình nhân “nửa đực nửa cái”. Khang Hữu trong một cuốn sách đã nói rằng: “Từ Hy thái hậu là một ác nữ hung bạo, là một bà lão khiến cho mọi người đều thảo ác, sống một cuộc sống phong lưu, phóng đãng. Là một thái hậu, một cung phi sa đọa, sức khỏe của bà rất tốt, ham muốn tình ái cũng rất mạnh mẽ. Đứng đầu trong những hoạn quan của bà cũng không phải chỉ đơn thuần là một vị thái giám, mà còn là một trong những tình nhân trong suốt quãng đời của bà”.
Người mà Khang Hữu nhắc tới đây chính là thái giám An Đức Hải và Lý Liên Anh. Vì thái giám không có khả năng sinh sản nên việc quan hệ của Từ Hy với những thái giám này phần nhiều là một dạng kích thích và an ủi tâm lý. Không những thế, nổi tiếng là một thái giám gian ngoan, Lý Liên Anh còn rất biết cách đáp ứng nhu cầu tình dục của Từ Hy Thái Hậu, vì thế nhận được sự sủng ái đặc biệt từ bà, mặc dù sự yêu chiều này kèm theo một khuynh hướng tâm lý biến thái.
Mặc dù ở tuổi 67 nhưng nhan sắc của Từ Hy vẫn khiến nhiều người điêu đứng
Văn Đình Thức thời nhà Thanh đã từng nhắc đến một câu chuyện như thế này trong “Vấn Trần Ngẫu Ký”, trong mùa xuân năm Quang Tự thứ 8, xưởng Lưu Ly nổi tiếng ở Bắc Kinh có một người buôn đồ cổ họ Bạch, người này đẹp mã, phong lưu, khéo léo, sau khi được Lý Liên Anh giới thiệu vào cung, người này đã được Từ Hy Thái Hậu sủng ái, triệu anh ta vào cung ở suốt 1 tháng sau mới được thả ra.
Không lâu sau, Thái Hậu mang thai, Thái Hậu Từ An sau khi biết chuyện bèn nổi trận lôi đình, muốn lấy lý do này phế danh nghĩa Hoàng Đế của Từ Hy Thái Hậu. Đại thần khuyên can tốt nhất không nên làm vì lo lắng Thái Hậu Từ An không giữ được mạng sống, tuy nhiên Từ An Thái Hậu không nghe, kết quả bị chết đột ngột ngay tối hôm đó.
Không chỉ dừng lại ở đó, dân gian còn lưu truyền việc tư thông của Từ Hy với một chàng trai họ Sử, chủ một nhà hàng bán súp ở ngoài thành. Người đàn ông này có ngoại hình vô cùng sáng lán nên khi lần đầu tiên gặp mặt tại phòng của Lý Liên Anh, vị thái hậu đã đánh tiếng cho thái giám họ Lý về việc “nhường” lại chàng trai này cho bà. Vì thế, chàng trai họ Sử thường xuyên được đưa vào cung để cùng Từ Hy… ăn sáng rồi ăn tối.
Rồi cũng chính dân gian lại đồn đại rằng, sau một năm tư thông với chàng trai họ Sử, Từ Hy đã mang thai và sinh được 1 người con trai. Vì là một thái hậu nên bà không dám nuôi cậu con trai này trong cung mà gửi nuôi dưỡng ở trong nhà Thuần Thân vương Dịch Hoàn, sau đó giết chàng trai họ Sử để bịt miệng, đứa trẻ này tức là Hoàng Đế Quang Tự sau này. Tuy nhiên tất cả những thông tin này chỉ là lời đồn đại mà không được đưa vào chính sử, vì thế tính xác thực của vụ việc chưa có hồi kết. Tuy nhiên vẫn có câu “không có lửa làm sao có khói”, miệng lưỡi của dân gian tương truyền thường thường có hình bóng của sự thật.
Chính vì rất biết chăm sóc sức khỏe nên khả năng “chuyện ấy” của Từ Hy rất sung mãn
Nổi tiếng nhất trong những mối tình ngoài luồng của Từ Hy chính là với người tình ngoại quốc có tên Edmund Backhous. Trong cuốn tự truyện “Thái hậu và tôi” của Edmund, người đàn ông này tiết lộ rằng, mối quan hệ đặc biệt giữa mình và Từ Hy bắt đầu vào năm 1902, khi đó ông mới chỉ 29 tuổi, còn Từ Hy thái hậu đã bước vào tuổi 67.
Người đàn ông này miêu tả chân thực rằng “Ngoài Từ Hy thái hậu, không có có thể khiến cho ông có được niềm đam mê thực sự”. Ông viết: “Từ Hy Thái hậu mặc dù đã gần bước sang tuổi 70 nhưng vẫn có một khuôn mặt sáng đẹp và trẻ trung. Vóc dáng bà thon nhỏ, duyên dáng, đôi bàn tay với những ngón thon dài, mềm mại, mái tóc dài vẫn đen mượt. Khi bà cười thì khiến ai cũng si mê…”. Chính vì thế mặc dù tuổi tác chênh nhau đến vài chục tuổi nhưng Từ Hy luôn khiến người tình thỏa mãn dục vọng bởi sự mãnh liệt của ham muốn cũng như từ sắc vóc trời cho bên ngoài.
Edmund còn tiết lộ, mặc dù tuổi đã cao nhưng chuyện chăn gối của Từ Hy thái hậu vẫn sung mãn vô cùng. Khi cao hứng, thậm chí bà còn bắt người tình thực hiện vô vàn những tư thế khó khiến người tình trẻ cũng bơ phờ. Bí mật để giữ gìn nhan sắc và duy trì sự dẻo dai, thỏa mãn các cuộc mây mưa của bà cũng được Edmund ghi lại. Theo đó, Từ Hy đặc biệt coi trọng việc thưởng ngoạn các món ăn được coi là tinh hoa của trời đất để cải lão hoàn đồng, bộ thận tráng dương, tăng cường sức khoẻ cho mỗi cuộc mây mưa. Một trong những món ăn được Từ Hy thái hậu đặc biệt ưa chuộng là Sâm Thử, chuột bao tử sống.

04/07/2021

CẦU TRƯỜNG KIỀU!


Cầu Trường nằm tại phía Đông Nam Tây Hồ của tỉnh Hàng Châu Trung Quốc là minh chứng cho câu chuyện tình yêu đẫm nước mắt giữa chàng trai tài ba Lương Sơn Bá và cô gái xinh đẹp Chúc Anh Đài.
Cầu Trường nơi chứng nhân chuyện tình rơi nước mắt trong du lịch Trung Quốc
Đến Tây Hồ tại Hàng Châu, Trung Quốc trong chuyến du lịch Trung Quốc du khách sẽ chẳng thể lượng thứ 3 cây cầu gắn với các chuyện tình nổi danh. Ví như cầu Đoạn Kiều là nơi Hứa Tiên gặp gỡ Bạch Nương Tử trong truyền thuyết Thanh Xà – Bạch Xà, cầu Tây Lãnh chứa đựng nỗi lòng bi thương của kỹ nữ Tô Tiểu Tiểu thì cầu Trường lại gợi nhắc chuyện tình Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài.
Cây cầu Trường, cây cầu gắn liền với mối tình của Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài, mối tình nổi tiếng đi vào lịch sử, thơ ca, phim ảnh được lưu truyền tại Trung Quốc.
Du lịch Trung Quốc
Theo tiếng Hán Việt thì từ “trường” có nghĩa là dài. Thế nhưng cây cầu Trường này lại có chiều dài không tới 100m. Tại cây cầu này đôi bạn trẻ Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài quyến luyến không rời, vì không muốn rời nhau, họ cùng nhau đi qua đi tới 18 lần trước khi nói lời từ biệt. Vì thế có câu:
“Trường kiều bất trường tình nghĩa trường.
Đoạn kiều bất đoạn thốn trường đoạn”
Hàm ý nói rằng: “Cầu Trường không dài nhưng nghĩa tình dài. Cầu Đoạn không gãy mà khiến lòng người đau như đứt từng khúc ruột”.
Cầu Trường điểm dừng chân khi đi du lịch Trung Quốc này còn có một cái tên khác là Cầu Song Đầu (có thể hiểu nôm na là cây cầu mà hai người nhảy xuống tự tử). Địa ngục ta kể rằng vào một đêm trăng sáng giữa thế kỷ XII sau công nguyên , một đôi trai gái tên là Vương Sinh và Đào Nữ đã đến cây cầu này và cùng nhau nhảy xuống tự tử. Kể từ đó Song Đầu trở nên cái tên mà dân gian đặt cho cầu Trường.

Address


Telephone

+84915323136

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Truyện Của Hướng Dẫn Viên posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Truyện Của Hướng Dẫn Viên:

Shortcuts

  • Address
  • Telephone
  • Alerts
  • Contact The Business
  • Claim ownership or report listing
  • Want your business to be the top-listed Travel Agency?

Share