Không gian Văn hóa Quốc Tử Giám

  • Home
  • Không gian Văn hóa Quốc Tử Giám

Không gian Văn hóa Quốc Tử Giám Thuộc hệ thống fanpage chính thức của Di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám

TRIỂN LÃM | VĂN MIẾU TRONG SỰ HỒI SINH DI SẢN CỦA HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 1898-1954Trong giai đoạn 1898-1954, Di tích Văn Miếu ...
17/02/2023

TRIỂN LÃM | VĂN MIẾU TRONG SỰ HỒI SINH DI SẢN CỦA HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 1898-1954

Trong giai đoạn 1898-1954, Di tích Văn Miếu và Viện Viễn đông Bác cổ Pháp (EFEO) có mối liên hệ chặt chẽ trong việc bảo vệ, tu bổ thường xuyên khu di tích, phục hồi chức năng thờ tự và luôn duy trì được vai trò quan trọng của địa điểm này đối với cảnh quan của Hà Nội. Lịch sử của Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp luôn gắn liền với Văn Miếu cho đến khi EFEO rời đi vào năm 1957.
Thông qua bộ sưu tập gần 100 bức ảnh Việt Nam của EFEO, triển lãm kể lại hành trình của những con người tham gia vào việc bảo tồn Văn Miếu. Họ là những nhà nghiên cứu, kiến trúc sư người Việt Nam và người Pháp làm việc tại EFEO, nhà cầm quyền của tỉnh Hà Đông lúc bấy giờ và cả những người thợ xây, thợ mộc, thợ sơn mài ,…lành nghề của Việt Nam. Nhờ những con người ấy, di sản này đã được trùng tu, tu bổ và gìn giữ cho tới ngày nay. Triển lãm cũng giúp công chúng hiểu hơn về công việc của các nhà nghiên cứu lúc bấy giờ, đồng thời cung cấp cho người xem một cách nhìn đương đại về công tác nghiên cứu ngày nay.

Tại triển lãm, công chúng còn được khám phá hình ảnh hình sinh động của khu di tích thay đổi qua thời gian qua hai video 3D do kiến trúc sư Đinh Nam Đức thực hiện.

👉 Thông tin chi tiết về triển lãm:
📍Thời gian: 14/02/2023 - 30/04/2023
📍Địa điểm:Tiền đường - nhà Thái Học, Di tích Quốc gia Đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám
👉 Các bạn tham dự vui lòng mua vé vào cửa di tích. Giá vé:
- 30,000đ đối với người lớn.
- 15,000đ đối với học sinh, sinh viên (có thẻ học sinh hoặc thẻ sinh viên)
- 15,000đ đối với người khuyết tật nặng, người cao tuổi (là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên, có chứng minh nhân dân)
- Miễn phí đối với trẻ em dưới 15 tuổi
------------------------
Theo dõi và liên hệ với chúng mình tại:
FB: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
YT: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
IG: quoctugiam.kgvh
ĐT: 098 979 23 86

26/01/2023

QUỐC TỬ GIÁM - TRƯỜNG QUỐC HỌC ĐẦU TIÊN

“Tháng 8, mùa thu. Mới lập nhà Văn Miếu. Tạc tượng Chu Công, Khổng Tử và Tứ phối, vẽ hình tượng Thất thập nhị hiển bày ở Văn Miếu, bốn mùa tế lễ. Sai Hoàng Thái tử tới đó học tập.”

(Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 3, mặt khắc 30)

Năm Bính Thìn (1076), dưới triều vua Lý Nhân Tông, Quốc Tử Giám được xây dựng phía sau Văn Miếu, với mục đích là nơi dạy học cho con em hoàng gia và đại thần quý tộc.

“Lập nhà Quốc Tử Giám; tuyển trong các văn thần lấy những người có văn học, bổ vào đó”.

(Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 3, mặt khắc 38)



------------------------
Theo dõi và liên hệ với chúng mình tại:
FB: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
YT: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
IG: quoctugiam.kgvh
ĐT: 098 979 23 86

TẾT | MÙNG BA TẢN MẠN CHUYỆN “TẾT THẦY”Truyền thống tôn sư trọng đạo từ lâu đã trở thành một mảnh ghép không thể thiếu t...
24/01/2023

TẾT | MÙNG BA TẢN MẠN CHUYỆN “TẾT THẦY”

Truyền thống tôn sư trọng đạo từ lâu đã trở thành một mảnh ghép không thể thiếu trong bức tranh văn hoá dân tộc Việt Nam, là chủ đề quen thuộc được thể hiện qua nhiều hình thức, được đề cập và bàn luận kể từ thời sơ kì của nền giáo dục Nho học và còn theo suốt dòng chảy của lịch sử cho đến tận ngày nay.

“Mùng một Tết cha, mùng hai Tết mẹ, mùng ba Tết thầy.”

Người Việt có lẽ ai cũng đã ít nhất đôi ba lần nghe câu nói này qua lời của ông bà, cha mẹ mỗi dịp đầu năm mới. Mỗi khi Tết đến, xuân về, ngoài những hoạt động chuẩn bị đón Tết trong nội bộ gia đình hoặc gia tộc (như dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa, sửa soạn lễ vật cúng tiến tổ tiên, chúc thọ ông bà,…), hay những hoạt động du xuân (như đi lễ đền chùa cầu may đầu năm, thăm hỏi họ hàng gần xa,…), thì việc thăm nom, chúc Tết thầy cô cũng là một hoạt động quan trọng đối với nhiều người trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc.

Theo đạo lí thời xưa, “vua, thầy, và cha” (君師父: quân, sư, phụ) là ba bậc người cần phải tôn kính. Vậy nên, không khó để thấy được tầm quan trọng và vị trí của người thầy trong cuộc đời mỗi người. Chẳng những thế, mối quan hệ sư đồ là một trong những quan hệ cơ bản trong xã hội, với mức độ thường trực và khăng khít được thể hiện không chỉ trên đạo lí sách vở, mà qua cả những hoạt động mang tính lễ nghi ở nhiều thời điểm trong năm. Bởi vậy, “Tết thầy” đã trở thành một hoạt động chủ đạo trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc. Điểm này đã được Phan Kế Bính bàn tới trong tác phẩm “Việt Nam phong tục” như sau:

“Học trò phải kính trọng thầy, phải quý mến thầy, mà nhất là thầy dạy học chữ lại phải kính trọng hơn nữa. Học trò khi mới vào học gọi là nhập môn, phải kiếm buồng cau lạy yết kiến thầy hai lạy. Lúc học gặp khi mồng năm ngày Tết như Tết Nguyên đán, Tết Thanh minh, Tết Đoan dương, Tết Trung thu, mùa nào thức ấy hoặc cặp gà thúng gạo, hoặc đường mứt bánh trái, hoặc dăm ba quan tiền, tuỳ tình đa thiểu mà đem đến lễ thầy. Khi nhà thầy có việc, hoặc việc hiếu, hoặc việc hỉ, hoặc khi có kị, học trò cũng kiếm lễ vật đến lễ, và giúp đáp công việc cho nhà thầy.”

Nhất Thanh trong “Đất lề quê thói” cũng có nhắc tới câu:

“Mồng một thì ở nhà cha,
Mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy.”

và bàn thêm về hoạt động chúc Tết thầy rằng:

“Học trò tết thầy học: Có những ông thầy nghèo học trò trông nhau lo biếu thầy chẳng thiếu thứ gì. […] Ngày mồng ba, học trò dù đã lớn tuổi, dù đã chức trọng quyền cao cũng đến bái niên thầy học và lễ gia tiên.”

Nguyễn Văn Huyên trong “Hội hè lễ tết của người Việt” thậm chí còn cho rằng người môn đệ đến chúc Tết thầy ngay trong buổi sớm mùng một:

“Ngay vào buổi sáng đầu tiên này, học trò đến nhà thầy chúc thầy sống lâu. Thầy cho học trò những mảnh giấy hoa tiên màu hồng và bút lông đẹp để họ viết những điềm báo trước cho cả năm.”

Nhà nghiên cứu Lê Nguyễn trong một bài đăng trên báo Thanh niên cho biết, học trò thời xưa mang lễ vật biếu Tết thầy “thường là một thúng gạo nhỏ, hoặc một cặp gà vịt, đường mứt, bánh trái, hoặc một vài quan tiền”. Từ những ý kiến trên, chúng ta có thể hình dung được phần nào không khí “Tết thầy” thời xưa, với hình ảnh những toán học trò hân hoan, lũ lượt người bưng, người ôm, người xách lễ vật đến chúc Tết thầy. Chúc Tết thầy vừa là dịp để thầy trò hoặc hàn huyên, tâm sự những chuyện ngoài lớp học để gắn kết tình thầy trò, hoặc sư đồ môn đệ cùng nhau “ôn cố tri tân”, lại vừa là cơ hội để học trò thể hiện lòng kính trọng và yêu mến đối với người đã truyền đạt tri thức cho mình.

Trong guồng quay của xã hội hiện đại với nhiều đổi thay trong đời sống và thói quen sinh hoạt, phong tục và lễ nghi ngày lễ tết ắt cũng chịu sự chuyển biến theo hướng giản tiện hơn, nhưng vẫn giữ được hồn cốt. Sinh ra và lớn lên trong thời đại mới, nhiều thế hệ người Việt ngày nay vẫn tiếp tục gìn giữ “mĩ tục” này bằng việc đi chúc Tết thầy cô vào những ngày đầu năm mới. Tuy trong tay không còn là “gà vịt, thóc gạo”, dù có hay không “bánh trái, đường mứt”, thì họ vẫn nhớ tới và đến với những người đã có công rèn đức, luyện tài cho bản thân. Trong những buổi tụ họp của cả tập thể lớp tại nhà thầy cô, hoặc chỉ là cuộc ghé thăm của vài ba người trò, chủ đề chính của cuộc trò chuyện vẫn là hỏi han và chúc tụng sức khoẻ thầy cô, chia sẻ những tâm tình bên ngoài phạm vi giảng đường, hay ôn lại kỉ niệm thời còn ngồi trên ghế nhà trường. Lại có những người ở xa, do điều kiện không cho phép mà không trở về được, thì luôn khắc khoải nhớ ơn, rồi bằng cách này hay cách khác gửi gắm những lời hay ý đẹp, những món quà tới chúc Tết thầy cô giáo cũ. Song, suy cho cùng, dù hình thức có thay đổi ra sao, tinh thần cốt lõi là tình cảm thầy trò và truyền thống tôn sư trọng đạo đáng trân quý vẫn không hề mai một. Thậm chí, ngay cả khi xã hội hiện đại đã dành ra ngày 20 tháng 11 như là dịp tri ân riêng cho nghề giáo và những người làm công tác giảng dạy, thì tục “Tết thầy” đầu năm vẫn không hề mất đi tầm quan trọng cố hữu của nó.

Bên cạnh việc đi chúc Tết tại tư gia thầy cô, những năm gần đây, ngày càng có nhiều gia đình ở Hà Nội lựa chọn đưa con cái đến Văn Miếu – Quốc Tử Giám vào những ngày Tết như là một phương thức giáo dục truyền thống và trải nghiệm thực tế, nhằm giáo dục cho con trẻ về tinh thần hiếu học, thể hiện lòng thành kính đối với những bậc thầy vĩ đại của dân tộc được thờ tự tại đây, cũng như tham gia những hoạt động mang đậm bản sắc truyền thống như xin chữ đầu năm ngay tại không gian Văn Miếu. Ngoài Văn Miếu – Quốc Tử Giám tại Hà Nội, các Văn Miếu địa phương hoặc các điểm di tích có liên quan đến truyền thống đạo học như đền thờ nhà giáo Chu Văn An tại Côn Sơn – Kiếp Bạc cũng liên tục đón nhiều đoàn du khách về tham quan vào những ngày đầu năm. Những hoạt động này chính là minh chứng cho sự tiếp nối và phát huy truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc, là lời khẳng định cho sự trường tồn của những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc.

--------
Tài liệu tham khảo:
1. Việt Nam phong tục, Phan Kế Bính, NXB Văn học, 2005.
Hội hè lễ tết của người Việt, Nguyễn Văn Huyên, NXB Thế giới, 2018.
2. Đất lề quê thói: Phong tục Việt Nam, Nhất Thanh, NXB Văn học, 2017.
3. "Phong Tục Mùng Ba Tết Thầy Đang Có Những Biến Đổi". Báo Đại Biểu Nhân Dân, 2023, https://daibieunhandan.vn/giao-duc--y-te1/phong-tuc-mung-ba-tet-thay-dang-co-nhung-bien-doi-i314434/.
4. "Mỹ Tục Xưa: 'Mùng Ba Tết Thầy' Trong Ngày Xuân ". Báo Thanh Niên, 2023, https://thanhnien.vn/my-tuc-xua-mung-ba-tet-thay-trong-ngay-xuan-post1544442.html


-----------------------------
Theo dõi và liên hệ với chúng mình tại:
Facebook: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
Youtube: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
IG: quoctugiam.kgvh
Email: [email protected]
SĐT: 098 979 23 86

TẾT | LÌ XÌ NGÀY TẾT Sau giây phút giao thừa, người dân Việt Nam có nhiều phong tục đặc sắc như hái lộc, xông nhà, chúc ...
23/01/2023

TẾT | LÌ XÌ NGÀY TẾT

Sau giây phút giao thừa, người dân Việt Nam có nhiều phong tục đặc sắc như hái lộc, xông nhà, chúc Tết họ hàng, bạn bè. Song hành cùng chúc Tết là mừng tuổi đầu xuân, đối với con trẻ thì hay gọi là lì xì ngày Tết. Lì xì mừng tuổi đầu năm là một nét văn hóa đẹp vẫn được gìn giữ cho đến ngày nay, trở thành một nghi thức không thể quên mỗi dịp Tết đến xuân về.

Từ "lì xì" trong tiếng Việt hiện đại là từ mượn gốc Hán, nhưng không đọc theo cách đọc Hán Việt mà phỏng theo âm đọc địa phương, nguyên gốc là từ 利事/是/市 (tiếng phổ thông: lìshì, tiếng Quảng: lei6 si6, âm Hán Việt: lợi thị) thường được dùng trong tiếng Quảng Đông, vốn có nghĩa là những điều tốt lành, may mắn, hoặc lợi nhuận trong làm ăn.

Nguồn gốc của tục lì xì được cho là bắt nguồn từ triều Tần ở Trung Quốc. Thời đó, người già thường tích những đồng xu nhỏ, buộc lại hay xâu lại với nhau bằng một sợi chỉ đỏ. Đây được coi là những đồng tiền may mắn giúp xua đuổi tà khí, bảo vệ trẻ nhỏ khỏi bệnh tật, xúi quẩy. Văn hóa dân gian Trung Hoa cũng lưu truyền một tích cổ. Tương truyền, có một con yêu quái chuyên xuất hiện vào đêm giao thừa, chuyên quấy nhiễu những đứa trẻ đang ngủ. Một lần, 8 vị tiên trên trời đi ngang qua, thấy vậy liền hóa thành những đồng tiền nằm bên cạnh mấy đứa trẻ, cha mẹ chúng cũng đem gói những đồng tiền này bằng tấm vải đỏ để xua đuổi yêu quái. Từ đó, mỗi lần Tết đến, người ta lại bỏ tiền vào trong những chiếc túi màu đỏ tặng cho trẻ con trong nhà, với hy vọng trẻ nhỏ hay ăn chóng lớn, khỏe mạnh, bình an.

Với ý nghĩa tốt đẹp đó, dần dần, người ta hình thành phong tục tặng tiền mừng tuổi cho người già, trẻ nhỏ trong ngày đầu năm, gửi gắm vào đó những lời chúc may mắn, thuận lợi tới gia chủ. Hiện nay, hình tượng sợi chỉ đỏ, hay chiếc túi đỏ đã được thay thế bằng những phong bao lì xì với mẫu mã, kiểu dáng đa dạng. Hầu hết người ta đều ưa chuộng sử dụng phong bao lì xì đỏ, bởi màu đỏ không chỉ gắn liền với nguồn gốc của phong tục, mà còn tượng trưng cho sự may mắn và không khí ấm áp sum vầy ngày Tết. Hình ảnh chiếc phong bao còn tượng trưng cho sự kín đáo, thể hiện nét ứng xử tinh tế của người tặng đối với người nhận.

Theo tục xưa, ngày đầu năm, trước hết là con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Ông bà, cha mẹ cũng chuẩn bị lì xì để mừng tuổi cho con cháu trong nhà và trẻ nhỏ nhà hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích. Tiền mừng tuổi thường cho số lẻ, ngụ ý tiền đó sẽ dư mãi, hàm ý mong muốn gia chủ quanh năm dư dả, phát đạt. Ngày Tết ai cũng thích cầu kỳ, người già thường khăn áo chỉnh tề ngồi trang trọng trên ghế để con cháu đến mừng tuổi và chúc thọ. Còn con trẻ khi nhận lì xì, cần khoanh tay cảm ơn, lắng nghe những lời khuyên, lời chúc của người lớn. Thường người ta sử dụng tiền mới để mừng tuổi, vì tiền mới tượng trưng cho một khởi đầu mới, cho những điều mới mẻ.

Nhà nghiên cứu văn hóa Bùi Xuân Mỹ từng viết, mừng tuổi là một dịp để những người thân thiết quan tâm đến nhau về mặt vật chất, nhưng là một thứ vật chất được thông qua tình cảm, nên rất có ý nghĩa. Người ta tin rằng, thêm một Tết là thêm một tuổi, thêm một tuổi là thêm một điều mừng: mừng người trẻ thêm khôn lớn, mừng người già thêm đắc thọ.

Như vậy, ý nghĩa của phong bao lì xì không nằm ở số tiền mừng, mà quan trọng là ở tâm ý của người tặng - người nhận và thiện ý tốt đẹp trong hành động mừng tuổi, chúc Tết ngày đầu năm mới. Nhận được hay cho đi nhiều phong bao lì xì trong ngày Tết đều được coi là điều may mắn. Vì vậy, người ta thường tránh mở phong bao lì xì ngay trước mặt người tặng, dặn con em không vòi vĩnh lì xì làm “dông” cả năm. Cụ Phan Thúc Trực thời nhà Nguyễn có viết một bài thơ về việc này:
元日賜小兒錢俗舉虛數作

世俗逢元旦,
攜錢賜小兒。
孩子雖未識,
利祿卻先期。
古道懷毋誑,
人情惡自欺。
童蒙在始教,
可不慎其機。

Phiên âm:
Nguyên nhật tứ tiểu nhi tiền tục cử hư sổ tác

Thế tục phùng nguyên đán,
Huề tiền tứ tiểu nhi.
Hài tử tuy vị thức,
Lợi lộc khước tiên kỳ.
Cổ đạo hoài vô cuống,
Nhân tình ác tự khi.
Đồng mông tại thuỷ giáo,
Khả bất thận kỳ cơ (ky).

Dịch nghĩa:
Ngày tết mừng tuổi trẻ thơ, thường hay nói quá, nhân đó làm bài thơ

Thế tục gặp ngày nguyên đán
Mang tiền mừng tuổi cho trẻ thơ
Bé con tuy chưa biết gì
Nhưng trước đã biết mong lợi lộc
Đạo xưa mong muốn không nói dối
Tính người ta ghét tự lừa mình
Dạy trẻ từ thuở thơ ấu
Không thể không thận trọng những lúc như thế
---------
Tài liệu tham khảo:
Cẩm Đình thi tuyển tập (thơ), Phan Thúc Trực, NXB Khoa học xã hội, 2011.
Lễ tục trong gia đình người Việt, Bùi Xuân Mỹ, NXB Văn hóa - Thông tin, 2007.
Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam, Tân Việt, NXB Văn hóa dân tộc, 2001.


-----------------------------
Theo dõi và liên hệ với chúng mình tại:
Facebook: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
Youtube: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
IG: quoctugiam.kgvh
Email: [email protected]
SĐT: 098 979 23 86

“Gần xa nô nức yến anhChị em sắm sửa bộ hành chơi xuânDập dìu tài tử giai nhânNgựa xe như nước áo quần như nêm...” (Truy...
22/01/2023

“Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm...” (Truyện Kiều - Nguyễn Du)


-----------------------------
Theo dõi và liên hệ với chúng mình tại:
Facebook: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
Youtube: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
IG: quoctugiam.kgvh
Email: [email protected]
SĐT: 098 979 23 86

Chúc mừng năm mới Quý Mão 2023!Chúc các bạn năm mới an khang thịnh vượng, công thành danh toại, tràn đầy sức sống với mu...
21/01/2023

Chúc mừng năm mới Quý Mão 2023!

Chúc các bạn năm mới an khang thịnh vượng, công thành danh toại, tràn đầy sức sống với muôn vàn giấc mơ bay cao 🎈


-----------------------------
Theo dõi và liên hệ với chúng mình tại:
Facebook: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
Youtube: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
IG: quoctugiam.kgvh
Email: [email protected]
SĐT: 098 979 23 86

TẾT | CÂU CHUYỆN BÁNH CHƯNG, BÁNH GIẦYMỗi dịp Tết đến xuân về, hình ảnh của chiếc bánh chưng luôn xuất hiện trong mỗi gi...
21/01/2023

TẾT | CÂU CHUYỆN BÁNH CHƯNG, BÁNH GIẦY

Mỗi dịp Tết đến xuân về, hình ảnh của chiếc bánh chưng luôn xuất hiện trong mỗi gia đình Việt Nam. Đã thành lệ, cả gia đình sẽ cùng nhau quây quần để gói và nấu bánh chưng để chuẩn bị cho Tết, cùng nhau trông nồi bánh chưng và kể cho nhau nghe những câu chuyện trong một năm qua. Xung quanh chiếc bánh chưng vuông vức ấy, là cả những sự tích thú vị và đầy ý nghĩa.

Theo cuốn Lĩnh Nam Chích Quái, mục "Truyện bánh chưng" (Chưng bính truyện-蒸餅傳):

““Sau khi vua Hùng Vương phá được giặc Ân, nhân quốc gia vô sự, muốn truyền ngôi cho con, bèn triệu hai mươi hai vị quan lang và công chúa lại mà phán rằng: “Ta muốn truyền ngôi cho kẻ nào làm ta vừa ý, cuối năm nay mang trân cam mĩ vị đến để tiến cúng tiên vương cho ta được tròn đạo hiếu thì sẽ được ta truyền ngôi.”

Các con đều đua nhau đi tìm của ngon vật lạ khắp trên cạn dưới biển, nhiều không sao kể xiết. Duy chỉ có vị công tử thứ 18 là Lang Liêu, bà mẹ trước kia vốn bị vua ghẻ lạnh, vì cô đơn mà chết, tả hữu ít người giúp đỡ, khó xoay xở, nên đêm ngày lo lắng, mộng mị bất an. Một đêm kia, mộng thấy có thần nhân tới nói rằng: “Các vật trên trời đất và mọi của quý của người không gì bằng gạo. Nay đem gạo nếp làm bánh, cái hình vuông, cái hình tròn để tượng trưng hình trời đất rồi dùng lá bọc ngoài, ở trong cho mĩ vị để ngụ ý công đức sinh thành lớn lao của cha mẹ.” Lang Liêu tỉnh dậy, mừng rỡ nói rằng: “Thần nhân giúp ta vậy!”

Nói rồi bèn theo lời dặn trong mộng mà làm, chọn thứ gạo nếp trắng tinh, lặt lấy những hạt tròn mẩy không bị vỡ, vo cho thật sạch, lấy lá xanh bọc xung quanh thành hình vuông, cho trân cam mĩ vị bên trong để tượng trưng cho đất, vạn vật rồi nấu chín gọi là bánh chưng. Lại lấy gạo nếp nấu chín, giã cho nát, nặn thành hình tròn, tượng trưng cho trời gọi là bánh giầy.

Đến kỳ, vua vui vẻ truyền các con bày vật tiến lên. Xem qua khắp lượt, thấy không thiếu thức gì. Duy có Lang Liêu chỉ tiến dâng bánh chưng và bánh giầy. Vua kinh ngạc mà hỏi, Lang Liêu đem giấc mộng thuật lại. Vua đem nếm, thấy ngon miệng không chán, hơn hẳn các thứ của các con khác, tấm tắc khen hồi lâu rồi cho Lang Liêu được nhất. Đến ngày Tết, vua thường lấy bánh này dâng cúng cha mẹ. Thiên hạ bắt chước, đến nay đổi tên Lang Liêu thành Tiết Liệu. Vua bèn truyền ngôi cho Liêu, anh em hai mươi mốt người đều được chia giữ các nơi phiên trấn, tụ tập bộ đảng mà thành phiên quốc. Về sau, các tướng tranh giành nhau thường dựng mộc sách (hàng rào bằng gỗ) để phòng ngự; cho nên, từ dó mới có sách, thôn, trang, phường.””

Sự tích bánh chưng bánh giày tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hoá lúa nước. Sự tích trên muốn nhắc nhở con cháu về truyền thống hiếu kính; lời giải thích ý nghĩa cũng như nguồn cội của của bánh chưng, bánh dày là nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc.

Bên cạnh đó, bánh chưng, bánh dày còn mang những ý nghĩa sâu xa về vũ trụ, nhân sinh. Theo dân gian, bánh chưng hình vuông, có góc cạnh, hình khối cụ thể thuộc âm, tượng trưng cho đất. Bánh giầy hình tròn không có góc cạnh, hình khối cụ thể thuộc dương, tượng trưng cho trời nên phải màu trắng, không nhân vị. Còn theo tín ngưỡng phồn thực dân gian và triết lý nõ - nường, thì bánh chưng, bánh dày còn mang ý nghĩa của sự sinh sôi, nảy nở.

Để có thể có được những chiếc bánh chưng vuông vức đẹp đẽ dâng lên tổ tiên, cả gia đình phải cùng nhau góp sức. Sự tỉ mỉ và chăm chút cho món ăn truyền thống lâu đời bậc nhất này thể hiện từ cách chọn từng chiếc lá bao ngoài cho đến nhân thịt mỡ bên trong. Lá để gói bánh chưng là lá d**g tươi, phải là lá bánh tẻ (không quá già cũng không quá non), to vừa phải, đều nhau, không bị rách, và xanh mướt mượt mà. Trước khi gói bánh, lá d**g cần được ngâm nước từ 30 đến 45 phút. Sau đó, dùng khăn mềm lau rửa nhẹ nhàng hai bên mặt lá thật sạch và để ráo nước. Một chiếc bánh chưng cần khoảng bốn chiếc lá d**g.

Gạo nếp dùng để gói bánh chưng phải là gạo nếp ngon, mẩy đều, căng bóng, hạt gạo không bị gãy, bể. Gạo nếp cần vo sạch và ngâm nước khoảng bốn tiếng, vớt ra để ráo nước. Như vậy nếp sẽ nở và mềm hơn giúp bánh mềm dẻo, ngon hơn, nấu bánh được nhanh hơn. Đậu xanh cần đãi bỏ lớp vỏ bên ngoài, vo sạch rồi đem ngâm qua đêm cho đậu nở, rồi đem đậu hấp chín, nghiền nhuyễn. Thịt ba chỉ chọn loại có da mỏng, mỡ trắng, có bảy phần thịt và ba phần mỡ, như vậy, khi ăn bánh sẽ không bị ngán vì thịt quá nhiều hay mỡ quá nhiều. Lạt buộc bánh chưng thường là lạt giang, mỏng, mềm và dẻo dai. Mỗi chiếc bánh chưng cần từ hai đến bốn dây lạt, tuỳ theo người gói muốn buộc chữ thập hay hình vuông. Khi gói bánh, dây lạt phải được buộc chặt tay để tránh bánh bị tét, lỏng làm rớt phân nhân bên trong ra ngoài.

Khâu chuẩn bị nguyên liệu, vật liệu đặc biệt quan trọng để bánh có thể bảo quản được lâu dài. Vo gạo không sạch, đãi đậu không kỹ hay rửa lá còn bẩn, không lau khô lá trước khi gói đều có thể khiến bánh chóng hỏng….

Chuẩn bị đã cầu kỳ, khâu chế biến cũng cần tỉ mỉ không kém. Bánh chưng cần được luộc trong khoảng thời gian từ 8 giờ đến 12 giờ đồng hồ. Trong quá trình luộc, cần phải để ý liên tục để nước luôn ngập bánh. Và phải cần rất nhiều kinh nghiệm được “gia truyền", để ra một thành phẩm bánh chưng xanh rền đẹp đẽ.

Vậy nên, để có chiếc bánh chưng đẹp đẽ, ngon mắt để dâng lên ông bà tổ tiên, sự tỉ mỉ và tập trung của cả gia đình là yếu tố quan trọng hàng đầu. Có người thì rửa lá, người thì vo gạo, người thì tỉ mỉ gói từng chiếc bánh chưng sao cho vuông vức và đẹp mắt. Và rồi đến 30 Tết, cả gia đình sẽ cùng nhau quây quần bên nồi bánh chưng, kể cho nhau nghe những câu chuyện vui buồn trong năm cũ để hướng đến một năm mới tốt đẹp hơn.

Có thể nói, tục gói bánh chưng ngày Tết, vừa là là dâng lên những món quà để cảm tạ tổ tiên, cảm tạ trời đất, mà trên hết, còn là cơ hội để gắn kết từng thành viên trong gia đình lại gần với nhau hơn, khởi đầu cho một năm mới sum vầy, ấm cúng.

*Tài liệu tham khảo:
Lĩnh Nam Chích Quái, Trần Thế Pháp, NXB Kim Đồng, 2017


-----------------------------
Theo dõi và liên hệ với chúng mình tại:
Facebook: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
Youtube: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
IG: quoctugiam.kgvh
Email: [email protected]
SĐT: 098 979 23 86

Nghỉ Tết tận 7 ngày thì làm gì 🎶Vị nào chưa qua thử thách này, vui lòng nộp một chú cá cho ngài mèo đây 🤫         ------...
21/01/2023

Nghỉ Tết tận 7 ngày thì làm gì 🎶
Vị nào chưa qua thử thách này, vui lòng nộp một chú cá cho ngài mèo đây 🤫


-----------------------------
Theo dõi và liên hệ với chúng mình tại:
Facebook: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
Youtube: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
IG: quoctugiam.kgvh
Email: [email protected]
SĐT: 098 979 23 86

TẾT | VỀ VỚI TẾTTrải qua hàng ngàn năm lịch sử, truyền thống hiếu học vẫn luôn chảy xuyên suốt trong huyết mạch mỗi ngườ...
20/01/2023

TẾT | VỀ VỚI TẾT

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, truyền thống hiếu học vẫn luôn chảy xuyên suốt trong huyết mạch mỗi người con đất Việt. Đạo học đã trở thành một trong những điều cốt yếu hình thành nên lối sống và con người nơi đây. Và Văn Miếu-Quốc Tử Giám - biểu trưng của đạo học trong hệ giá trị Việt - không chỉ là nơi nhân dân gửi gắm những ý nguyện tốt đẹp, mà còn để nhắc nhớ về truyền thống tôn sư trọng đạo - truyền thống văn hoá lâu đời của một dân tộc hiếu học.

Còn cách nào gìn giữ và trao truyền tinh thần văn hoá tốt hơn là trao truyền từ trong mỗi gia đình. Mỗi mùa xuân về; những người cha, người mẹ sẽ đưa những đứa trẻ trong nhà đến với không gian văn hoá - lịch sử, kể cho con nghe câu chuyện về truyền thống hiếu học của dân tộc. Chính tại nơi đây, đứa trẻ sẽ được khơi dậy những giấc mơ đầu tiên. Và cũng từ đây, những giấc mơ Việt sẽ trưởng thành và lan toả khắp bốn phương trời.

Nhưng không chỉ vậy…

Văn Miếu - Quốc Tử Giám còn là nơi để trở về. Với những đứa trẻ đã trưởng thành, đã trải qua muôn dặm hành trình mới, từng có lúc lạc lối, hoang mang, đánh rơi giấc mơ thuở thiếu thời… thì Văn Miếu - Quốc Tử Giám là nơi để các bạn tìm về. Về với truyền thống, với cội nguồn dân tộc. Về để biết mình là người con nước Nam, để tinh thần dân tộc là nền móng, đánh thức sức sống mạnh mẽ của người dân Việt trong chính mình, và để thắp lên ước mơ của mình một lần nữa.

Năm nay, Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám, với thông điệp “Về với Tết", hy vọng sẽ kết nối truyền thống và tinh thần hàng ngàn năm của cha ông đến với mỗi người con đất Việt, để cùng nhau thắp nên một năm mới tràn đầy sức sống, với muôn vàn giấc mơ được bay cao vời vợi.


-----------------------------
Theo dõi và liên hệ với chúng mình tại:
Facebook: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
Youtube: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
Email: [email protected]
SĐT: 098 979 23 86

TẾT | CÂY NÊU NGÀY TẾTDựng cây nêu ngày Tết là một phong tục lâu đời của người Việt Nam. Trong cái Tết của nông thôn Việ...
19/01/2023

TẾT | CÂY NÊU NGÀY TẾT

Dựng cây nêu ngày Tết là một phong tục lâu đời của người Việt Nam. Trong cái Tết của nông thôn Việt Nam xưa, trong sân mỗi nhà và trên sân đình, sân chùa làng đề trồng một cây tre để cả ngọn, gọi là cây nêu. Năm nối tiếp năm, đời này nối tiếp đời khác, cứ trôi qua như thế, cây nêu đã trở thành một phong tục đặc sắc của người Việt ta. Cây nêu ngày Tết mang ý nghĩa chính là để xua đuổi ma quỷ và những điều bất hạnh của năm cũ, cầu mong một năm mới tốt lành.

Trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam câu truyện Sự tích cây nêu ngày Tết đại ý kể rằng: Do quỷ chèn ép người, hàng năm đều thu hết hoa lợi do con người trồng cấy. Phật thấy vậy bèn giúp người trừ quỷ. Phật bảo người trồng cây nêu (dùng một cây tre thật cao), Phật treo chiếc áo cà sa lên đầu ngọn cây và thỏa thuận với quỷ rằng, bóng chiếc áo phủ đến đâu sẽ là đất do con người quản lý và thu hoạch hoa lợi, phần còn lại sẽ thuộc về quỷ. Quỷ đồng ý, Phật dùng phép cho bóng chiếc áo phủ lên khắp mặt đất khiến quỷ không còn chỗ trú thân, vì vậy bị đuổi ra ngoài biển đông. Nhưng hàng năm mỗi dịp Tết về, quỷ đều muốn trở vào đất liền để tìm tiên tổ và kiếm cái ăn. Để tránh bị quỷ quấy nhiễu, con người bèn dựng cây nêu trên ngọn treo miếng vải, sau đổi thành lá bùa và chiếc khánh bằng đất nung khi gió rung tạo ra tiếng động để xua đuổi quỷ. Trên ngọn cây cũng thường treo bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái, vì con người cho rằng đó là vật mà quỷ rất sợ.

Trong ca dao có câu:
“Cành đa lá dứa treo kiêu (cao)
Vôi bột rắc ngõ chớ trêu mọi nhà.
Quỷ vào thì Quỷ lại ra.
Cành đa lá dứa thì ta cứa mồm”

Mỗi dân tộc có từng loại hình cây nêu khác nhau. Cây nêu của người Kinh là cây tre dài, trảy sạch nhánh, trên ngọn có treo bánh trái và bùa bát quái. Cây nêu của các dân tộc thiểu số là loại cây gỗ chắc chắn được vẽ quanh thân, có tua đại, trên đỉnh trang trí theo hình thức tô tem giáo.
Những vật treo trên cây nêu tượng trưng cho nội dung hướng về sự bảo vệ con người và cầu mong hạnh phúc. Ví dụ như lá dứa để dọa quỷ, khánh tượng trưng cho hạnh phúc, tiền mã là cầu tài, lông gà là biểu tượng chim thần - sức mạnh thiên nhiên giúp người.

Cây nêu là biểu tượng cây vũ trụ, nối liền đất với trời. Vòng tròn đỏ tượng trưng cho mặt trời. Cây vũ trụ là nơi đậu của mặt trời và chim thần. Cuối năm, khi mùa đông dần trôi đi, người ta bắt đầu trồng nêu với dụng ý ngọ nêu sẽ vươn lên đón xuân, đón ánh mặt trời, khi Dương và cũng để biểu hiện đối ứng áp đảo với Quỷ, biển Đông - biểu tượng của âm.

Trong sách “Gia Định Thành Thông Chí” - tài liệu cổ xưa viết về vùng đất Nam bộ, tác giả Trịnh Hoài Đức, ghi lại: “Bữa trừ tịch (đêm Giao thừa) mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là “Thượng nêu”... có ý nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ”.

Dưới thời quân chủ Việt Nam, lễ Thượng tiêu (dựng nêu) được coi là một nghi lễ quan trọng nằm trong những lễ tiết chính yếu do Hoàng thượng đích thân hành lễ. Minh Mệnh năm thứ 8 [1827], Bộ Lễ tâu rằng: Theo lệ một năm có 5 lễ hưởng cùng với tiết Nguyên đán, Đoan dương, Thượng tiêu đều do Hoàng thượng đích thân đến Thái miếu, Thế miếu làm lễ. Tuy nhiên các lễ tiết đều có ghi chép rõ ràng về nghi thức, riêng lễ Thượng tiêu ngày cuối năm bản thân các quan trong triều cũng lúng túng thừa nhận “không thấy sách vở nào nói rõ”. Nhưng tục nước ta theo làm đã lâu thành nếp, vì vậy các quan bàn xin không nên bỏ lễ này, nhưng có thể cử Hoàng tử hoặc các tước công đi tế thay. Vua cho là phải.

Trong cuốn “Hội hè lễ tết của người Việt”, Nguyễn Văn Huyên mô tả cây nêu ngày tết khá chi tiết: “Đấy là một cây tre dài năm sáu mét, được tước hết các cành, nhưng có để lại ở ngọn những cụm lá hoặc buộc vào đó một túm lông gà trống, một mớ lá đa hay lá cây vạn niên thanh. Gần đỉnh treo một cái vòng tre, có buộc những con cá nhỏ, những chiếc chuông con và khánh bằng đất sét nung phát ra một âm thanh nhẹ và êm khi gió thổi. Dưới cái vòng này có buộc một cái mũ thần, những thoi vàng bằng giấy, những miếng trầu, lá dứa hoặc cành xương rồng g*i. Ở đỉnh còn treo một cái đèn thắp ban đêm. Cây nêu được làm như vậy để chỉ đúng đường cho tổ tiên trở về ăn tết.”

Còn trong cuốn “Việt Nam phong tục” của học giả Phan Kế Bính, viết hồi năm 1915, thuật lại: “Lại có nhiều nơi chặt tre dựng cây nêu, kết ba cái lạt ra, buộc một bó vàng. Hoặc lấy cành đa lá dứa cài ngoài cửa ngõ. Hoặc là rắc vôi bột trong sân ngoài ngõ, vẽ bàn cờ cái cung, cái nỏ... cũng là có ý trừ quỷ, kẻo sợ năm mới quỷ vào quấy nhà mình”.

Mỗi dân tộc khác nhau, thời gian dựng cây nêu cũng khác nhau. Người Kinh dựng nêu vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, để ngăn ngừa ma quỷ tới quấy rầy gia chủ trong những ngày ông Công - ông Táo lên chầu trời. Một số dân tộc khác như Tày, Nùng ở miền núi phía Bắc như: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Lào Cai, Yên Bái lại trồng cây nêu vào chiều 30 tháng Chạp âm lịch…

Trong lễ hội, cây Nêu là tiêu điểm tập trung, cố kết của tâm thức cộng đồng. Ðối với cư dân nông nghiệp, nông lịch luôn gắn bó với cuộc sống, định hình thời vụ sản xuất và sinh hoạt, lễ hội. Thời điểm cuối năm là thời điểm nông nhàn, chuẩn bị bước vào các hoạt động vui chơi. Khi cây nêu được dựng lên, tất cả mọi hoạt động khác đều dừng lại. Nó tạo nên thế cân bình tuyệt đối trong sự vận hành thay đổi giữa năm cũ và năm mới. Con người yên tâm vui chơi, cả cộng đồng sinh hoạt vui vẻ, quên đi những ưu phiền của năm cũ.

Ngày xưa, cây nêu là biểu tượng cho sự uy quyền, nhà nào có quyền thế nhất là nhà đó có cây nêu cao nhất. Trên cây nêu có lá bùa bát quái. Lá bùa có ý nghĩa đuổi quỷ, trừ ma nhằm che chở cho con người yên tâm vui tết.

Ngày nay, cây nêu ở đồng bằng bị biến dạng bởi sự tác động của tôn giáo và cuộc sống hiện đại. Nó chỉ còn tồn tại trong những dịp lễ hội của dân tộc thiểu số. Cây nêu của người dân tộc thiểu số được dựng lên để cáo tế thần linh dự lễ hội đâm trâu, mong cho mùa màng năm sau tươi tốt. Con trâu bị cột chặt phải chạy vòng quanh cây nêu, cùng lúc ấy mọi thành viên trong cộng đồng hoà nhập vào lễ tế linh thiêng.

Những năm gần đây, phong tục trồng cây nêu ngày Tết đã dần bị mai một, thay vào đó người dân thường chơi hoa, cây cảnh hoặc sắm các loại cây như đào, mai, quất… để bày biện trong nhà với mong muốn một năm mới phát tài phát lộc, sum xuê, đủ đầy. Tuy nhiên tại một số vùng thôn quê hoặc vùng dân tộc thiểu số việc dựng cây nêu ngày tết vẫn diễn ra nhưng ý nghĩa nguyên bản để trấn quỷ trừ ma hầu như không còn nữa. Cây nêu được trồng chủ yếu mang ý nghĩa tượng trưng, cầu chúc những điều tốt đẹp trong năm mới, cũng là sự hoài niệm về một phong tục của tết cổ truyền Việt Nam xưa.

------
Tài liệu tham khảo:
Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục.
Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí.
Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000.
Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nxb Văn học, Hà Nội, 2005.
Nguyễn Trọng Phấn, Xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVII, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, tp HCM, 2016.
Nguyễn Văn Huyên, Hội hè lễ tết của người Việt, NXB Thế giới, Hà Nội, 2018.
----------------

-----------------------------
Theo dõi và liên hệ với chúng mình tại:
Facebook: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
Youtube: Không gian Văn hoá Quốc Tử Giám
Email: [email protected]
SĐT: 098 979 23 86

Address


Telephone

+84989792386

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Không gian Văn hóa Quốc Tử Giám posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Không gian Văn hóa Quốc Tử Giám:

Videos

Shortcuts

  • Address
  • Telephone
  • Alerts
  • Contact The Business
  • Videos
  • Claim ownership or report listing
  • Want your business to be the top-listed Travel Agency?

Share