Vua Tàu Thuỷ Việt Nam - Vietnam’s King of Ships

Vua Tàu Thuỷ Việt Nam - Vietnam’s King of Ships "Tiền mất đi còn có thể tìm lại được, chứ chữ tín mất đi là hỏng việc lớn sau này"

Tiếng Việt:Cột cờ Thủ Ngữ, biểu tượng lịch sử của Sài Gòn, đã chứng kiến một sự kiện quan trọng vào năm 1920 khi tàu Bìn...
20/12/2024

Tiếng Việt:
Cột cờ Thủ Ngữ, biểu tượng lịch sử của Sài Gòn, đã chứng kiến một sự kiện quan trọng vào năm 1920 khi tàu Bình Chuẩn của cụ Bạch Thái Bưởi lần đầu cập cảng. Đây không chỉ là cột mốc đánh dấu bước ngoặt của ngành hàng hải Việt Nam, mà còn khẳng định tinh thần tự cường và khát vọng kinh tế dân tộc. Tàu Bình Chuẩn, được xem là con tàu hiện đại đầu tiên do người Việt sở hữu và vận hành, mang theo giấc mơ đưa thương mại Việt Nam sánh vai cùng thế giới. Cột cờ Thủ Ngữ, nơi tập trung các tàu thuyền qua lại, đã trở thành chứng nhân của những thay đổi lớn trong lịch sử kinh tế và giao thương Sài Gòn đầu thế kỷ 20.

English:
The Thủ Ngữ Flagpole, a historical symbol of Saigon, witnessed a significant event in 1920 when the Bình Chuẩn ship of Bạch Thái Bưởi docked for the first time. This moment marked a turning point in Vietnam’s maritime industry, symbolizing the nation’s resilience and economic ambition. The Bình Chuẩn, regarded as the first modern ship owned and operated by Vietnamese, carried the dream of elevating Vietnamese trade to compete on the global stage. The Thủ Ngữ Flagpole, a hub for passing ships, stands as a testament to the major economic and commercial transformations of early 20th-century Saigon.

Tiếng Việt:Bộ ảnh chân dung phụ nữ Việt Nam hơn 100 năm trước (năm 1915) tại Hà Nội mang đến một góc nhìn quý giá về vẻ ...
20/12/2024

Tiếng Việt:
Bộ ảnh chân dung phụ nữ Việt Nam hơn 100 năm trước (năm 1915) tại Hà Nội mang đến một góc nhìn quý giá về vẻ đẹp và đời sống thời kỳ đầu thế kỷ 20. Đây là những bức ảnh màu nguyên bản, thuộc số ít hình ảnh có màu đầu tiên chụp phong cảnh và con người Việt Nam, giúp tái hiện rõ nét văn hóa và xã hội xưa. Qua những bộ trang phục truyền thống, kiểu tóc và dáng vẻ đầy tự nhiên, chúng ta có thể cảm nhận được tinh thần và vẻ đẹp chân thực của người phụ nữ Việt Nam thời bấy giờ. Bộ ảnh không chỉ là tư liệu lịch sử mà còn là cánh cửa mở ra câu chuyện về một giai đoạn đáng nhớ của Việt Nam.

English:
This collection of portraits of Vietnamese women over 100 years ago (1915) in Hanoi provides a valuable glimpse into the beauty and life of the early 20th century. These original color photographs are among the first color images capturing Vietnam’s landscapes and people, vividly showcasing the culture and society of the past. Through traditional attire, hairstyles, and natural postures, we can feel the spirit and authentic beauty of Vietnamese women from that time. This collection is not only a historical document but also a gateway to stories from a remarkable era of Vietnam’s history.

Source: chuyenxua.net

Trong nửa đầu thế kỷ 20 ở Hà Nội, hầu như khu vực nào cũng có dân “anh chị”. Chợ Đồng Xuân trước kia họp trên đất trống,...
18/12/2024

Trong nửa đầu thế kỷ 20 ở Hà Nội, hầu như khu vực nào cũng có dân “anh chị”.

Chợ Đồng Xuân trước kia họp trên đất trống, sau được xây dựng bằng khung sắt, trở thành trung tâm buôn bán lớn. Hàng Khoai bên cạnh là nơi bán hàng vặt, nhưng tai tiếng vì nhóm của Tư Đòn và Voi Xanh chuyên móc túi, gây sự.

Trong khi đó, Hàng Lược gần cầu Long Biên là "địa bàn" của Tư Đậu, Năm Bông, Ba Lập Lờ - những trùm du côn nổi danh chuyên tranh giành, gây gổ khắp khu vực.

Đầu thế kỷ 20, Hàng Giấy vẫn đông đúc các quán ca trù. Ban đêm, phố nhộn nhịp, xe tay đưa đón khách, thỉnh thoảng lại xảy ra chuyện ghen tuông nên chính quyền để mắt. Năm 1915, cảnh sát Hà Nội lập bót Hàng Đậu.

“Dân chơi” đến ca quán thấy cảnh sát Tây lững lững cũng ngại nên các ca quán ngày càng vắng khách. Sau đó được chuyển về Thái Hà nhưng bị gã Tiến, con trai ông trùm Trần Vương, quấy phá. Thế là các quán kéo về Khâm Thiên, được Bát Chắm và Cửu Khê bảo kê, làm ăn ngon nghẻ, giá đất tăng vèo.

Sợ thật chứ, thời ấy các cụ kể lại mà cũng hồn xiêu phách lạc với mấy thành phần này.

Nguồn: Vietnamnet

In the first half of the 20th century in Hanoi, almost every area had its own notorious gangs.

Đồng Xuân Market, initially an open-air marketplace, later became a major trading hub with an iron frame structure. Nearby, Hàng Khoai was known for petty trade but infamous for the pickpocketing and trouble caused by Tư Đòn and Voi Xanh’s group.

Hàng Lược Street near Long Biên Bridge was the territory of infamous gang leaders like Tư Đậu, Năm Bông, and Ba Lập Lờ, who frequently caused disputes and fights.

Early in the 20th century, Hàng Giấy Street was bustling with ca trù (traditional music) houses. At night, rickshaws ferried guests back and forth, but incidents of jealousy prompted police attention. In 1915, Hanoi police established a station at Hàng Đậu.

The presence of Western police discouraged “playboys” from visiting, leading to the relocation of ca trù houses to Thái Hà. However, harassment by Tiến, the son of a notorious gang leader, forced them to move to Khâm Thiên, where they prospered under the protection of Bát Chắm and Cửu Khê, boosting land prices in the area.

It was a tumultuous time, and the stories passed down still send shivers down one’s spine.

Source: Vietnamnet

17/12/2024

Tiếng Việt

Lượn lờ Hồ Gươm bao lần, bạn có bao giờ để ý tới ngôi đền cổ nằm trên phố Đinh Tiên Hoàng? Đền Bà Kiệu là một trong những đền thờ Mẫu đầu tiên tại Việt Nam và đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia năm 1994.

Ngôi đền thờ Bà Kiệu, một vị thần được nhân dân tôn kính. Thần phả kể rằng Công chúa Liễu Hạnh, con gái Ngọc Hoàng, từng bị giáng trần và sau đó trở thành một trong “tứ bất tử” trong tâm thức dân gian. Đền bị cháy năm 1889 nhưng tượng vẫn còn nguyên vẹn. Hiện nay, khu đền chính nằm tại góc phố Lò Sũ, với cổng tam quan hướng ra ven hồ.

Đền Bà Kiệu là điểm đến tâm linh của người Hà Nội và du khách, nơi lưu giữ giá trị văn hóa và lịch sử bền vững.

English

Have you ever noticed the ancient temple on Đinh Tiên Hoàng Street while wandering around Hoàn Kiếm Lake? Bà Kiệu Temple is one of the earliest Mother Goddess temples in Vietnam and was recognized as a National Historic and Cultural Site in 1994.

The temple honors Bà Kiệu, a revered figure in Vietnamese beliefs. Legend tells of Princess Liễu Hạnh, the Jade Emperor’s daughter, who was exiled to Earth and later became one of the “Four Immortals” in Vietnamese folklore. Though the temple burned down in 1889, its statues remained intact. Today, the main shrine stands at the corner of Lò Sũ Street, with its iconic three-gate entrance by the lake.

Bà Kiệu Temple is a spiritual destination for both locals and visitors, preserving its historical and cultural significance over the centuries.

17/12/2024

Lời Xẩm hát theo Ca Trù

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng

Cô kia má đỏ hồng hồng

Muốn ra Hà Nội lấy chồng làm quan

Đường đi hiểm trở gian nan

Tàu 'Bạch Thái Bưởi' dọn đàng rước dâu...”

16/12/2024

Ngâm thơ

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng

Cô kia má đỏ hồng hồng

Muốn ra Hà Nội lấy chồng làm quan

Đường đi hiểm trở gian nan

Tàu 'Bạch Thái Bưởi' dọn đàng rước dâu...”

Tiếng Việt:Bức ảnh ghi lại một phiên tòa “đơn giản” của lực lượng lính khố xanh ở Hà Nội giai đoạn 1883–1884, dưới thời ...
15/12/2024

Tiếng Việt:

Bức ảnh ghi lại một phiên tòa “đơn giản” của lực lượng lính khố xanh ở Hà Nội giai đoạn 1883–1884, dưới thời Pháp thuộc. Đây là một tòa án địa phương cấp thấp (tribunal de simple police) giải quyết các vụ việc dân sự hoặc vi phạm nhỏ. Phiên tòa diễn ra ngoài trời với sự tham gia của các viên chức người Pháp và Việt Nam trong trang phục truyền thống.

Hình ảnh phản ánh giai đoạn chuyển giao quyền lực khi người Pháp bắt đầu áp đặt hệ thống cai trị thuộc địa tại Việt Nam. Lính khố xanh, lực lượng cảnh sát bản xứ do Pháp thành lập, được giao nhiệm vụ duy trì trật tự và thi hành pháp luật.

Bức ảnh do bác sĩ quân y C.E. Hocquard chụp lại, mang giá trị tư liệu lịch sử quý giá, giúp tái hiện sinh động một góc nhìn về đời sống chính trị, xã hội Việt Nam cuối thế kỷ 19.

English:

The photograph captures a “simple tribunal” session conducted by the Khố Xanh troops (native police force) in Hanoi between 1883 and 1884, during the early French colonial period. This was a low-level local court (tribunal de simple police) dealing with minor civil disputes or small infractions.

The court session was held outdoors, with French and Vietnamese officials present, the latter wearing traditional attire. The image reflects a period of transitional power when the French began to impose their colonial administrative system in Vietnam. The Khố Xanh troops, established by the French, were tasked with maintaining order and enforcing laws.

Captured by military doctor C.E. Hocquard, the photograph holds immense historical value, offering a vivid depiction of Vietnam’s political and social landscape in the late 19th century.

Tiếng Việt:Tục kiêng tên của người Việt xưa là một nét văn hóa độc đáo, thể hiện lòng kính trọng đối với tổ tiên, cha mẹ...
15/12/2024

Tiếng Việt:

Tục kiêng tên của người Việt xưa là một nét văn hóa độc đáo, thể hiện lòng kính trọng đối với tổ tiên, cha mẹ, và những bậc đáng kính. Người Việt tránh phát âm đúng tên người cần kiêng bằng cách nói chệch đi hoặc dùng từ đồng nghĩa thay thế. Ví dụ, tên Cảnh được đọc thành Kiểng, Bạch thành Biếc.

Tục kiêng tên không chỉ áp dụng trong gia đình mà còn ở phạm vi cộng đồng, làng xóm. Nói tên người cần kiêng một cách vô ý là bị coi là bất kính. Ngoài ra, người ta còn kiêng tên các bậc vua chúa, anh hùng dân tộc, hay ân nhân xã hội.

Trong các kỳ thi thời phong kiến, nếu phạm húy mà không tránh chữ kiêng, dù bài làm xuất sắc cũng bị loại. Tục này phản ánh sâu sắc ý thức tôn kính và sự tuân thủ quy củ trong xã hội Việt Nam xưa.

English:

The Vietnamese Custom of Name Taboo is a unique cultural practice reflecting respect for ancestors, parents, and esteemed individuals. The Vietnamese avoided pronouncing the exact names of those to be respected by altering the pronunciation or using synonyms. For instance, the name Cảnh was pronounced as Kiểng, and Bạch as Biếc.

This practice extended beyond families to the community level. Speaking the name of someone to be respected carelessly was considered disrespectful. Additionally, people refrained from saying the names of kings, national heroes, or societal benefactors.

In imperial examinations, failing to avoid tabooed names resulted in disqualification, regardless of the quality of the work. This custom profoundly illustrates the Vietnamese people’s respect and adherence to societal norms in ancient times.

Bến Bính, Hải Phòng (1903-1924) là một trong những cảng sông quan trọng nhất tại miền Bắc Việt Nam trong thời kỳ thuộc đ...
14/12/2024

Bến Bính, Hải Phòng (1903-1924) là một trong những cảng sông quan trọng nhất tại miền Bắc Việt Nam trong thời kỳ thuộc địa. Hình ảnh này ghi lại cảnh nhộn nhịp với các tàu thuyền neo đậu, phản ánh vai trò quan trọng của Hải Phòng trong giao thương hàng hải và kinh tế. Những công trình kiến trúc mang phong cách Pháp, như mái vòm nổi bật, tạo nên sự hòa quyện độc đáo giữa văn hóa Á - Âu. Bến Bính không chỉ là một trung tâm thương mại mà còn là chứng nhân của lịch sử, ghi dấu thời kỳ phát triển của thành phố. Đến nay, nơi đây vẫn mang giá trị văn hóa và lịch sử sâu sắc, gắn bó với sự hình thành và phát triển của Hải Phòng hiện đại.

Bến Bính (Binh Wharf) in Hai Phong (1903-1924) was one of the most significant river ports in northern Vietnam during the colonial era. This image captures the bustling scene of moored ships, highlighting Hai Phong’s vital role in maritime trade and economic activity. The French-inspired architecture, including the prominent dome, represents a unique blend of Eastern and Western cultures. Bến Bính was not only a commercial hub but also a witness to history, marking the city’s growth during a transformative period. Today, it remains a site of cultural and historical importance, closely tied to the formation and development of modern Hai Phong.

Tiếng Việt:Ngôi nhà truyền thống Bắc Bộ 300 năm là biểu tượng văn hóa và lịch sử Việt Nam, mang vẻ đẹp vượt thời gian. Đ...
14/12/2024

Tiếng Việt:

Ngôi nhà truyền thống Bắc Bộ 300 năm là biểu tượng văn hóa và lịch sử Việt Nam, mang vẻ đẹp vượt thời gian. Được xây dựng từ gỗ lim quý, mái ngói đỏ vảy cá và cột trụ chắc chắn, ngôi nhà phản ánh sự khéo léo của người xưa. Kiến trúc ba hoặc năm gian với họa tiết chạm khắc tinh xảo như tứ linh, hoa sen và chữ Hán thể hiện giá trị tâm linh và nghệ thuật.

Không gian sống hòa quyện với thiên nhiên, sân vườn rộng rãi trồng cây cảnh, hoa và rau xanh. Gian chính thờ cúng tổ tiên, hai gian bên là nơi sinh hoạt gia đình. Ngôi nhà không chỉ lưu giữ giá trị truyền thống mà còn là chứng nhân lịch sử qua bao thế kỷ.

Việc bảo tồn và phát huy giá trị ngôi nhà truyền thống là trách nhiệm để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

English:

The 300-year-old traditional Northern Vietnamese house is a cultural and historical symbol of Vietnam, showcasing timeless beauty. Built from precious lim wood, with fish-scale-shaped red tile roofs and sturdy columns, the house reflects the craftsmanship of the past. Its three- or five-room structure features intricate carvings of sacred symbols, lotus flowers, and Chinese characters, embodying spiritual and artistic values.

Living spaces blend harmoniously with nature, featuring spacious gardens with ornamental plants, flowers, and vegetables. The central hall is dedicated to ancestor worship, while side rooms serve as family living spaces. The house preserves traditional values and stands as a witness to centuries of history.

Preserving and promoting the value of these traditional houses is a responsibility to safeguard national cultural identity.

Tiếng Việt:Bức ảnh tái hiện trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam những năm 1920, đặc biệt ở khu vực Bắc Kỳ. Trang...
14/12/2024

Tiếng Việt:

Bức ảnh tái hiện trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam những năm 1920, đặc biệt ở khu vực Bắc Kỳ. Trang phục gồm áo dài tay rộng làm từ lụa hoặc nhung, thể hiện sự thanh lịch và quý phái. Các phụ nữ thường vấn tóc cao hoặc đội khăn, sử dụng quạt làm phụ kiện, tạo nên phong thái thanh nhã. Bối cảnh chụp hình được trang trí với bàn, ghế gỗ chạm trổ và bình hoa, phản ánh nếp sống tao nhã của tầng lớp trung lưu, thượng lưu thời kỳ này. Bức ảnh không chỉ là tư liệu lịch sử mà còn là lời nhắc về vẻ đẹp truyền thống, sự kết nối văn hóa và nghệ thuật của phụ nữ Việt trong thời kỳ thuộc địa.

English:

This photo portrays the traditional attire of Vietnamese women in the 1920s, particularly in Tonkin (Northern Vietnam). The outfit consists of long-sleeved áo dài made from silk or velvet, embodying elegance and sophistication. Women often styled their hair in buns or wore headscarves, accompanied by fans as accessories, creating a graceful appearance. The setting, adorned with carved wooden furniture and floral arrangements, reflects the refined lifestyle of the middle and upper classes of the era. This photo serves not only as a historical document but also as a reminder of traditional beauty, cultural heritage, and the artistic identity of Vietnamese women during the colonial period.

CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT? HẢI DƯƠNG – VÙNG ĐẤT CỦA TIẾN SĨHải Dương được mệnh danh là “đất tiến sĩ” nhờ truyền thống khoa bả...
13/12/2024

CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT? HẢI DƯƠNG – VÙNG ĐẤT CỦA TIẾN SĨ

Hải Dương được mệnh danh là “đất tiến sĩ” nhờ truyền thống khoa bảng rực rỡ. Trong giai đoạn khoa cử Nho học (1075-1919), tỉnh này đã đóng góp 486 tiến sĩ, chiếm hơn 1/6 tổng số 2898 tiến sĩ trên toàn quốc.

Nổi bật nhất là làng Mộ Trạch (xã Tân Hồng, huyện Bình Giang), nơi được biết đến với tên gọi “làng tiến sĩ” hay “lò tiến sĩ xứ Đông”. Làng nhỏ này đã sản sinh 39 vị tiến sĩ, một kỳ tích khiến cả nước ngưỡng mộ.

DID YOU KNOW? HẢI DƯƠNG – LAND OF SCHOLARS

Hải Dương is known as the “land of scholars” for its remarkable academic tradition. During the Confucian examination period (1075–1919), the province contributed 486 scholars, accounting for over one-sixth of Vietnam’s total of 2,898 scholars.

The most famous is Mộ Trạch village (Tân Hồng commune, Bình Giang district), known as the “village of scholars” or the “scholars’ cradle of the East,” which produced 39 scholars—a feat admired nationwide.

Đầu thế kỷ 19, người Pháp thiết lập nền giáo dục ở Việt Nam với hai mục đích chính: đào tạo đội ngũ hành chính, giáo dục...
11/12/2024

Đầu thế kỷ 19, người Pháp thiết lập nền giáo dục ở Việt Nam với hai mục đích chính: đào tạo đội ngũ hành chính, giáo dục và y tế; đồng thời truyền bá văn học Pháp nhằm giảm ảnh hưởng của Nho học.

Sự cải cách quan trọng nhất mà người Pháp mang lại là việc đưa các môn khoa học vào giáo dục. Trước đó, xã hội Việt Nam chủ yếu dựa vào triết lý Khổng-Mạnh để tổ chức gia đình và cộng đồng.

Những thay đổi này đã góp phần chuyển đổi tư duy, tạo nền tảng cho sự phát triển xã hội hiện đại, dù chịu nhiều tranh cãi về mục đích thực sự của nền giáo dục thuộc địa.

Admin: DDGV, LT và DTT
¤¤¤¤¤
NĐK

In the early 19th century, the French established an educational system in Vietnam with two main objectives: training administrative, educational, and medical personnel; and promoting French literature to diminish the influence of Confucianism on the Vietnamese.

The most significant reform introduced by the French was the inclusion of scientific subjects in education. Prior to this, Vietnamese society relied heavily on Confucian philosophy to organize families and communities.

These changes contributed to a shift in thinking and laid the foundation for modern social development, despite controversies surrounding the true intentions of colonial education.

Admin: DDGV, LT, and DTT
¤¤¤¤¤
NĐK

Vì Sao Người Xưa Có Câu “Ăn Bắc, Mặc Nam”?Thời xưa, ông cha ta có câu “Ăn Bắc, mặc Nam” để nhấn mạnh sự tinh tế trong ẩm...
09/12/2024

Vì Sao Người Xưa Có Câu “Ăn Bắc, Mặc Nam”?

Thời xưa, ông cha ta có câu “Ăn Bắc, mặc Nam” để nhấn mạnh sự tinh tế trong ẩm thực miền Bắc và vẻ thanh lịch trong trang phục của người miền Nam. Ẩm thực miền Bắc từ lâu đã nổi tiếng với sự cầu kỳ trong chế biến, trang trí tỉ mỉ và hương vị thanh tao, trong khi trang phục miền Nam thường mang nét thanh lịch, rực rỡ và chịu ảnh hưởng từ nhiều nền văn hóa khác nhau.

Sự khác biệt này xuất phát từ văn hóa, khí hậu và điều kiện sống giữa hai miền. Miền Bắc với bốn mùa rõ rệt đã phát triển nhiều cách chế biến món ăn độc đáo. Trong khi đó, miền Nam, nhờ tiếp xúc với các nền văn hóa khác nhau, đã nhanh chóng cập nhật và sáng tạo nhiều xu hướng thời trang.

Ngày nay, câu nói này không còn phản ánh chính xác cuộc sống hiện đại. Mỗi vùng miền đều sở hữu nét ẩm thực và văn hóa độc đáo, tạo nên bức tranh văn hóa Việt Nam phong phú và đa dạng.

Why Did Ancestors Say “Eat Like the North, Dress Like the South”?

In the past, Vietnamese ancestors coined the saying “Eat like the North, dress like the South” to emphasize the culinary sophistication of northern Vietnam and the refined elegance of southern clothing. Northern cuisine has long been celebrated for its meticulous preparation, intricate presentation, and delicate flavors, while southern attire traditionally showcased elegance, vibrant colors, and influences from diverse cultures.

This distinction arises from the cultural, climatic, and living conditions between the two regions. The North, with its four distinct seasons, fostered diverse cooking methods. Meanwhile, the South’s exposure to various cultural influences allowed it to adopt and innovate fashion trends more quickly.

Today, this saying no longer fully reflects modern life. Each region boasts its unique cuisine and culture, contributing to Vietnam’s rich and diverse cultural tapestry.

Tiếng Việt

08/12/2024

Ô Quan Chưởng: Chứng Nhân Lịch Sử

Năm 1880, Ô Quan Chưởng chỉ là một cổng nhỏ nối liền bãi sông Hồng với khu phố bên trong thành Hà Nội. Đây không chỉ là một cổng thành đơn thuần, mà còn mang dấu ấn lịch sử đầy biến động gắn với sự kiện người lái buôn Jean Dupuis và cuộc xâm chiếm của thực dân Pháp.

Jean Dupuis, một thương nhân người Pháp, đến Việt Nam với tham vọng khai thác lợi ích thương mại từ dòng sông Hồng. Tranh chấp giữa Dupuis và quan chức Việt Nam trong thương vụ bán vũ khí đã kéo theo sự can thiệp của Francis Garnier, dẫn đến cuộc đánh chiếm thành Hà Nội tháng 4/1873. Sau sự kiện này, người Pháp gọi Ô Quan Chưởng là Port de Jean Dupuis, còn phố Hàng Chiếu từng mang tên Rue de Jean Dupuis.

Ô Quan Chưởng ngày nay vẫn giữ nguyên tên gọi, như một biểu tượng trường tồn và chứng nhân cho giai đoạn lịch sử đầy đau thương nhưng quan trọng của Hà Nội.

Ô Quan Chưởng: A Witness to History

In 1880, Ô Quan Chưởng was merely a gate connecting the Red River banks to the bustling inner streets of Hanoi. However, it holds deep historical significance tied to the events surrounding French merchant Jean Dupuis and the colonial conquest of Hanoi by France.

Jean Dupuis, a French trader, arrived in Vietnam with ambitions to exploit the Red River for commercial gains. A dispute between Dupuis and Vietnamese officials over an arms trade deal escalated, prompting Francis Garnier to intervene. This intervention led to the seizure of Hanoi in April 1873, marking a pivotal moment in French colonial expansion. Following the conquest, the French renamed the gate Port de Jean Dupuis, and the street we now know as Hàng Chiếu was once called Rue de Jean Dupuis.

Today, Ô Quan Chưởng retains its original name, standing as a timeless symbol and witness to Hanoi’s tumultuous yet significant historical journey.

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước thì thương nhau cùng” là câu ca dao sâu sắc về tình đoàn kết và lòng...
08/12/2024

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước thì thương nhau cùng” là câu ca dao sâu sắc về tình đoàn kết và lòng nhân ái của người Việt.

Hình ảnh “nhiễu điều” – tấm vải đỏ quý giá – che phủ và bảo vệ “giá gương” mang ý nghĩa tượng trưng cho sự chở che, đùm bọc lẫn nhau trong cộng đồng. Câu ca dao nhắn nhủ rằng, dù hoàn cảnh hay vùng miền khác nhau, những người cùng chung dân tộc cần yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau, đặc biệt trong lúc khó khăn.

Tinh thần này phản ánh giá trị truyền thống “lá lành đùm lá rách” của người Việt, khuyến khích sự đồng cảm và trách nhiệm cộng đồng. Trong xã hội hiện đại, thông điệp này vẫn giữ nguyên giá trị, là lời nhắc nhở về sự đoàn kết để xây dựng một quốc gia bền vững và nhân ái.

“The precious red silk covers the mirror stand, People of one nation should love and care for one another” is a profound Vietnamese proverb about unity and compassion.

The image of “red silk” – a valuable cloth – covering and protecting the “mirror stand” symbolizes mutual care and support within a community. The proverb reminds us that despite differences in circumstances or regions, those who share the same nation must love and help one another, especially in difficult times.

This spirit reflects the traditional Vietnamese value of “the healthy leaf shelters the torn one,” encouraging empathy and community responsibility. In modern society, this message remains timeless, serving as a reminder of the importance of solidarity in building a sustainable and compassionate nation.

08/12/2024

Âm Nhạc Cảm Xúc: Chiến Lược Chạm Đến Trái Tim Đồng Bào của Cụ Bạch Thái Bưởi

Cụ Bạch Thái Bưởi, một trong những doanh nhân kiệt xuất của Việt Nam đầu thế kỷ 20, không chỉ là một nhà kinh doanh xuất chúng mà còn là một người tiên phong trong việc sử dụng văn hóa, đặc biệt là âm nhạc dân gian, để chạm đến trái tim đồng bào. Với lòng yêu nước sâu sắc và tinh thần đổi mới, cụ đã biến những giá trị văn hóa truyền thống thành công cụ gắn kết cộng đồng và khơi dậy tinh thần đoàn kết dân tộc.

Chiến Lược Âm Nhạc: Lời Hát Chạm Đến Trái Tim

Với sự hợp tác cùng Á Nam Trần Tuấn Khải – nhà thơ nổi tiếng với ngòi bút đậm tính nhân văn, cụ Bạch Thái Bưởi đã khéo léo sử dụng hát xẩm, một loại hình nghệ thuật dân gian quen thuộc với người lao động, để truyền tải thông điệp yêu nước.

Bài hát bắt đầu bằng những câu thơ đậm chất truyền thống:

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”

Lời ca này không chỉ là một câu tục ngữ quen thuộc mà còn mang thông điệp nhắc nhở mọi người về tinh thần đoàn kết và sẻ chia. Đây là giá trị cốt lõi trong văn hóa Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh đất nước đang chịu nhiều áp bức từ thực dân và sự cạnh tranh không lành mạnh từ các doanh nghiệp nước ngoài.

Tiếp nối, bài hát chuyển sang mô tả thực tế:

“Tàu ‘Bạch Thái Bưởi’ dọn đàng rước dâu…”

Lời ca khéo léo lồng ghép hình ảnh tàu thủy của cụ, vừa như một biểu tượng hiện đại, tiện ích, vừa là cầu nối văn hóa và tình yêu. Đây là cách cụ quảng bá thương hiệu mà không gây phản cảm, thay vào đó, tạo sự gần gũi và lòng tự hào dân tộc trong lòng người dân.

Ý Nghĩa Cảm Hóa: Âm Nhạc và Tinh Thần Dân Tộc

Lựa chọn hát xẩm không phải ngẫu nhiên. Hát xẩm là tiếng hát của người lao động, dễ dàng đi vào lòng người nhờ sự chân thật và gần gũi. Đây là loại hình nghệ thuật gắn bó với đời sống thường nhật của người dân, đặc biệt là tầng lớp nghèo khổ, những người vốn luôn tìm thấy sự an ủi qua âm nhạc.

Cụ Bạch Thái Bưởi đã mời Á Nam Trần Tuấn Khải viết lời để kết hợp giữa nghệ thuật truyền thống và thông điệp hiện đại. Lời ca không chỉ đơn thuần ca ngợi vẻ đẹp của đất nước hay tinh thần dân tộc mà còn mang nội dung cụ thể, khuyến khích người dân ủng hộ doanh nghiệp Việt. Đây là sự kết hợp khéo léo giữa kinh doanh và lòng yêu nước, trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt với các doanh nghiệp nước ngoài.

Tác Động: Truyền Thông và Cộng Đồng

Chiến lược âm nhạc của cụ Bạch Thái Bưởi nhanh chóng lan tỏa và tạo nên hiệu ứng cộng hưởng mạnh mẽ. Trên các chuyến tàu của cụ, những câu hát xẩm vang lên như một lời mời gọi tự hào dân tộc. Từ trẻ em đến người lớn, mọi tầng lớp xã hội đều dễ dàng cảm nhận được tinh thần mà bài hát truyền tải.

Hành khách trên các chuyến tàu không chỉ di chuyển mà còn cảm nhận được sự gắn kết với quê hương, với đồng bào qua từng câu hát. Những chuyến tàu của cụ không còn là phương tiện giao thông đơn thuần mà đã trở thành không gian văn hóa, nơi người dân thấy mình là một phần của điều gì đó lớn lao hơn – một tinh thần dân tộc.

Di Sản Truyền Cảm Hứng

Chiến lược sử dụng âm nhạc dân gian của cụ Bạch Thái Bưởi không chỉ đơn thuần là cách quảng bá mà còn là một minh chứng sống động cho sức mạnh của văn hóa. Cụ đã khẳng định rằng văn hóa, khi được khai thác đúng cách, không chỉ là biểu tượng của bản sắc dân tộc mà còn là công cụ kết nối cộng đồng, xây dựng niềm tin và khơi dậy lòng tự hào.

Câu chuyện về cụ Bạch Thái Bưởi và lời hát xẩm do Á Nam Trần Tuấn Khải viết vẫn vang vọng đến ngày nay như một biểu tượng của sự sáng tạo, lòng yêu nước, và sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống. Đây là bài học không chỉ cho các doanh nhân, mà còn cho tất cả những ai đang tìm kiếm cách kết nối sâu sắc hơn với cộng đồng và cội nguồn dân tộc.

Trong thời đại hội nhập, chiến lược của cụ Bạch Thái Bưởi vẫn mang tính thời sự, nhắc nhở rằng văn hóa chính là sức mạnh mềm để xây dựng thương hiệu và gắn kết cộng đồng. Những câu hát xẩm giản dị ngày ấy vẫn là minh chứng cho sức mạnh của âm nhạc trong việc chạm đến trái tim của con người, đưa họ xích lại gần nhau hơn và cùng hướng về một tương lai chung tốt đẹp hơn.

Emotional Music: Bạch Thái Bưởi’s Strategy to Touch the Hearts of His People

Bạch Thái Bưởi, one of Vietnam’s most iconic entrepreneurs of the early 20th century, was not only known as the “King of Steamships” for his remarkable business acumen but also as a visionary who leveraged culture and music to inspire national unity. He understood that to win the support of his fellow countrymen, practical actions alone were not enough—he needed to touch their emotions and ignite a sense of national pride through cultural values.

A Musical Strategy: Songs That Touch the Heart

In collaboration with Á Nam Trần Tuấn Khải, a celebrated poet renowned for his evocative writings, Bạch Thái Bưởi skillfully utilized hát xẩm—a traditional Vietnamese folk music form—to deliver messages of patriotism and solidarity.

The lyrics began with familiar and deeply resonant words:

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”

These verses, derived from Vietnamese proverbs, evoke the nation’s core value of solidarity, reminding people of their shared responsibility to care for one another. This was a poignant call for unity, especially during a time when Vietnam was grappling with colonial pressures and economic competition from foreign businesses.

The song then transitions into a depiction of modern reality:

“Tàu ‘Bạch Thái Bưởi’ dọn đàng rước dâu…”

This line cleverly integrates the image of Bạch Thái Bưởi’s steamships, portraying them not just as transportation but as symbols of progress, cultural connection, and romance. By embedding his brand into the song, Bạch Thái Bưởi transformed his steamships into a cultural icon, seamlessly blending business promotion with national pride.

The Power of Music: Reviving National Spirit

The choice of hát xẩm was no coincidence. Known as the music of the common people, hát xẩm resonated deeply with Vietnam’s working class, offering a simple yet powerful medium to convey messages of hope and resilience. Rooted in everyday life, hát xẩm was both relatable and emotionally compelling, making it an ideal vehicle for Bạch Thái Bưởi’s vision.

By inviting Á Nam Trần Tuấn Khải to craft the lyrics, Bạch Thái Bưởi successfully merged traditional art forms with contemporary themes. The song’s narrative not only celebrated Vietnam’s cultural heritage but also carried a forward-looking message, urging citizens to support Vietnamese enterprises in the face of foreign competition.

This was more than a marketing strategy—it was a profound act of cultural patriotism, rallying people to stand together and uplift their nation through shared pride and collective effort.

Impact: Resonating Through the Community

Bạch Thái Bưởi’s musical initiative created a ripple effect of inspiration and pride across the community. The songs were not just performed but also echoed on his steamships, becoming an integral part of the passenger experience. Travelers aboard his vessels were greeted with the sounds of hát xẩm, turning ordinary journeys into cultural encounters.

From children to elders, every listener could feel the emotional power of the lyrics. The steamships became more than just a means of transportation—they became floating cultural hubs, uniting passengers in a shared sense of belonging and purpose. Each journey carried the essence of Vietnamese identity, transforming Bạch Thái Bưởi’s business into a symbol of national unity.

A Legacy of Inspiration

Bạch Thái Bưởi’s innovative use of traditional music serves as a timeless lesson on the power of culture to build connections and inspire communities. By incorporating music into his business strategy, he demonstrated how cultural heritage could be both a source of pride and a tool for progress.

The collaboration with Á Nam Trần Tuấn Khải and the heartfelt hát xẩm remain a lasting legacy, symbolizing creativity, patriotism, and an unwavering respect for tradition. His strategy reminds us that businesses, when rooted in cultural values, can transcend commerce and contribute to a greater cause: uniting people and uplifting a nation.

Even today, Bạch Thái Bưởi’s approach holds relevance in a globalized world. His story underscores the importance of cultural authenticity and emotional resonance in building trust and loyalty. The simple yet profound lyrics of hát xẩm serve as a testament to the enduring power of music to touch hearts, bridge divides, and inspire collective action toward a brighter future.

Address

Hanoi
10000

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Vua Tàu Thuỷ Việt Nam - Vietnam’s King of Ships posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Vua Tàu Thuỷ Việt Nam - Vietnam’s King of Ships:

Videos

Share

Category

King of Cruise Ships - Vua Tầu Thủy Việt Nam.

This year marks the 100th anniversary of the launch of the Vietnamese Binh Chuan cruise in Haiphong. This page is a collection of all you need to know about King of Cruise Ships of Vietnam.

“Làm ra của cải là một đạo lý lớn, không thể coi thường”.

“Tiền mất đi có thể lấy lại được, chữ tín mất đi là hỏng việc lớn” Bạch Thái Bưởi

Tôi xin trân trọng giới thiệu với thầy cô giáo và các em học sinh lớp 4 và tất cả nhưng ai yêu mến văn hoá, lịch sử và di sản dân tộc về những nghiên cứu chuyên sâu của tôi về cuộc đời, tư tưởng, đạo kinh doanh, bộ sưu tập hiện vật quý, những bài học hay và những câu chuyện truyền cảm hứng của tiền nhân, một nhà tư sản dân tộc luôn thành tín, nhân nghĩa và trách nhiệm.