30/11/2024
Bài thuyết minh về Lăng Vua Tự Đức
Kính thưa quý vị Huế là vùng đất kinh đô nhà Nguyễn, triều đại cuối cùng trong chế độ Phong
Kiến của Việt Nam. Nơi đây đã khắc họa 1 phần nào hình ảnh của tập đoàn Phong Kiến cuối cùng của
nước ta. Những hình ảnh đó được du khách trong và ngoài nước biết đến qua các công trình kiến trúc
mang đậm nét cổ kính như khu vực Đại Nội, trung tâm đầu não về chính trị, là bộ máy nhà nước của triều
Nguyễn, hay hệ thống lăng tẩm nơi an nghỉ của các vị vua nhà Nguyễn vẫn mãi trường tồn với thời gian.
Triều Nguyễn bắt đầu từ năm 1802 kéo dài 143 năm với 13 đời vua, bắt đầu là vua Gia Long kết thúc vào
đời vua Bảo Đại. Nhưng do những biến cố lịch sử thì hiện tại ở Huế chỉ có 7 ngôi lăng mộ của vua: Gia
Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức (do con là vua Thành Thái cho xây), Đồng Khánh, Khải
Định. Và qua các hệ thống lăng tẩm của từng vị vua sẽ giúp quý vị phần nào hiểu rõ hơn về sự nghiệp cai
trị, đức tính và con người của vị vua đó. Trong buổi chiều ngày hôm nay quý vị sẽ đi thăm viếng lăng Tự
Đức 1 trong 7 ngôi lăng mộ của các vị vua Triều Nguyễn.
Kính thưa quý vị vua Tự Đức là vị vua thứ 4 của nhà Nguyễn, tên thật là Nguyễn Phúc Hồng
Nhậm là con thứ 2 của vua Thiệu Trị và bà Từ Dụ. Ông sinh năm 1829 lên ngôi vua lúc 20 tuổi là vị vua
cai trị lâu đời nhất của nhà Nguyễn kéo dài 36 năm từ năm 1848 đến 1883. Nhưng trong những năm cai
trị của mình thì đất nước xảy ra nhiều biến cố như trong 36 năm cai trị thì hết 18 năm đê Văn Giang ở Hải
Ninh bị vỡ khiến cho đời sống người dân đầy cơ cực chúng ta vẫn hay nghe câu:
"Từ khi Tự Đức lên ngôi
Thiên hạ mất mùa, trẻ khóc như ri
Đến khi Tự Đức mất đi
Thiên hạ thái bình mới dễ làm ăn."
Ngoài ra trong những năm ông cai trị thì việc mất đất về tay của người Pháp đã diễn ra. Mười
năm sau khi ông lên ngôi vào năm 1858 người Pháp đã nổ tiếng súng tại bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) bắt
đầu cho công cuộc xâm lược của mình. Sau đó 4 năm vào năm 1862 người Pháp dùng áp lực buộc nhà
Nguyễn phải ký hiệp ước Hòa Bình và Hữu Nghị, phải dâng 3 vùng đất của Nam Kỳ cho người Pháp bảo
hộ: Gia Định, Biên Hòa, Định Tường. Tiếp theo đó là hòa ước Quý Mùi (1883) nhà Nguyễn đã dâng 3
vùng đất còn lại của Nam Kỳ Lục Tỉnh cho Pháp. Và những việc này đều diễn ra trong những năm cai trị
của vua Tự Đức. Đó được xem như 1 nỗi buồn của ông.
Thêm phần vua Tự Đức có tới 103 người vợ nhưng không có con, do thuở nhỏ sức khỏe của ông
vốn yếu kém còn mắc thêm bệnh đậu mùa nên hậu quả dẫn đến là việc ông bị vô sinh, mặc dù có tới 103
người vợ nhưng không có 1 người con nào, thậm trí ông còn hạ mình lấy 1 người phụ nữ đã có 8 người
con, ý là người phụ nữ này dễ đẻ, mắng đẻ. Để hi vọng sẽ cho ông 1 người con nhưng đáng tiếc chính căn
bệnh đã hành hạ ông. Mà trong tư tưởng Phong Kiến có câu "bất hiếu hửu tam vô hậu vi đại" trong 3 tội
bất hiếu của người con trai không có con nối dòng là tội lớn nhất. Chính vì vậy ông nhìn cuộc đời bi quan
chán chường, ông cho rằng cuộc sống con người trên đời chỉ là "sinh khí tử qui" sống là tạm thời chết
mới là vĩnh cửu. Thêm phần vua Tự Đức là người đã hấp thụ khá đầy đủ nền văn hóa và triết học Đông
Phương cùng với 1 số mâu thuẫn giữa cái tích cực lúc trẻ và nội tại lúc già, giữa sự sống và cái chết. Thất
bại trước việc nước, việc nhà nên khi càng lớn tuổi, ông càng bi quan. Điều đó cũng thể hiện qua những
bài thơ của Vua:
Sự đời ngẫm nghĩ, nghĩa mà ghê!
Sống gửi, rồi ra lại thác về.
Khôn dại cùng chung ba thước đất,
Giàu sang chưa chín một nồi kê.
Tranh giành trước mắt mây tan tác,
Đày đoạ sau thân núi nặng nề.
Muốn đến hỏi tiên, tiên chẳng bảo,
Gượng làm chút nữa để mà nghe.
Do đó nhà vua đã nghĩ cái chết tất nhiên sẽ đến với đời mình, và để vơi bớt những dằn vặt khổ đau trong
quãng đời còn lại, cho nên nhà vua đã hạ lệnh cho xây dựng lăng tẩm như 1 hoàng cung thứ 2 để thỉnh
thoảng đến đây tiêu khiển nghỉ ngơi và cũng để làm "ngôi nhà lâu dài của Trẫm".
Lăng được bắt đầu xây dựng vào năm 1864 dự tính làm trong vòng 6 năm. Lúc đầu được đặt tên
là Vạn Niên Cơ có ý nghĩa là đất tốt vạn năm. Việc xây lăng được giao cho 2 vị quan là Nguyễn Văn Chất
và ông Lê Văn Xa. Nhưng do 2 vị quan này muốn lập công nên đã rút ngắn thời gian xây lăng xuống còn
1 nửa. Nếu xây lăng trong vòng 6 năm thì những người lính và thợ họ sẽ được thay phiên nhau về nghỉ 3
tháng 1 lần. Nhưng do rút ngắn xuống còn 3 năm nên hơn 4000 nhân công phải làm việc cực lực trong
điều kiện tối thiểu nên người chết vô số chính điều đó đã dẫn đến cuộc khởi nghĩa chày vôi vào năm
1866. Do chính người xây lăng, họ sử dụng những công cụ các cối chày, cối vôi để dựng nên cuộc khởi
nghĩa này nhằm lật đổ Tự Đức và đưa Định Đạo lên ngôi (con của Hồng Bảo, gọi Vua Tự Đức bằng chú).
Nhưng may mắn cho vua Tự Đức là cuộc khởi nghĩa này đã nhanh chóng bị đập tắt. Sau đó nhận thấy
việc xây lăng chưa hợp lòng dân, chưa thuận ý trời do vào 5/1866 điện Hòa Khiêm bị sét đánh trúng nên
vua Tự Đức đã cho cải tên từ Vạn Niên Cơ thành Khiêm lăng. Nhưng vết nhơ trong việc xây lăng vẫn còn
mãi cho tới ngày nay, như chúng ta đã từng nghe:
"Vạn niên là vạn niên nào
Thành xây xương lính hào đào máu dân"
Và Khiêm lăng được hoàn thành trong vòng 3 năm từ 1864 - 1867 với diện tích 12ha cùng với 50
công trình lớn nhỏ, chia thành 3 khu vực: Khu vui chơi, giải trí; khu ăn ở sinh hoạt; khu an táng. Nhìn vào
sơ đồ chúng ta có thể nhìn thấy được 3 khu vực trên (giải thích các khu vực, lịch trình đi tham quan). Và
cũng giải thích cho quý vị biết tại sao gọi là lăng, tại sao gọi là tẩm. Tẩm: nơi làm việc, ăn nghỉ của nhà
vua, sau khi mất đi trở thành nơi thờ cúng. Lăng: chính là nơi chôn cất thi hài của nhà vua.
Toàn bộ khu lăng cùng lấy núi Giáng Khiêm ở phía trước làm tiền án, núi Dương Xuân làm hậu
chẩm, hồ Lưu Khiêm làm yếu tố minh đường. Toàn cảnh lăng Tự Đức như 1 công viên rộng lớn. Ở đó
quanh năm có suối chảy, thông reo, muôn chim ca hát. Yếu tố quan trong được đề cao trong lăng là sự hài
hòa của đường nét. Không có những con đường thẳng tắp, đầy góc cạnh như các kiến trúc lăng của các vị
vua nhà Nguyễn khác, mà thay vào đó là con đường lát gạch Bát Tràng bắt đầu từ cửa Vụ Khiêm (nơi
đoàn vừa qua cổng bước vào) đi qua trước Khiêm Cung Môn (nơi đoàn đang đứng) rồi uốn lượn quanh co
ở phía trước lăng mộ và đột ngột khuất vào những hàng cây sứ đại thụ ở gần lăng Lệ Thiên Anh Hoàng
Hậu. Sự sáng tạo của con người hài hòa với cảnh quan tự nhiên tạo nên 1 khung cảnh thơ mộng, diễm lệ.
Và toàn bộ khu vực lăng rộng 12 ha với 50 công trình đa phần đều có chữ Khiêm trong tên gọi
như: cửa vào: Vụ Khiêm, nơi làm việc: Hòa Khiêm Điện, nơi ăn nghỉ: Lương Khiêm Đường, nhà hát:
Minh Khiêm Đường.
Còn từ đây quý vị có thể nhìn thấy Đảo Tịnh Khiêm, Hồ Lưu Khiêm. Nguyên sơ của hồ Lưu
Khiêm là 1 dòng suối nhỏ nước chảy quanh năm. Sau nhà vua cho đào hành hồ để nuôi cá trồng sen. Phần
đất đào hồ thì cho đắp thành 1 hòn đảo nhỏ gọi là là Đảo Tịnh Khiêm để vua nuôi chim thú giải trí. Đối
diện với bên kia hồ là Xung Khiêm Tạ nơi để vua ngắm cảnh làm thơ. Dũ Khiêm Tạ đề làm nơi câu cá.
Và phía sau lưng quý vị là Khiêm Cung Môn, đây là cánh cổng đưa đoàn tới tham quan phần tẩm, là nơi
làm việc và ăn nghỉ của vua Tự Đức lúc còn sống khi mất đi trở thành nơi thờ cúng. Bây giờ xin phép mời
quý vị vào tham quan phần đầu tiên trong phần tẩm đó là Hòa Khiêm Điện.
Và trước mắt quý vị đây chính là phần bên ngoài của Hòa Khiêm Điện, xin mời đoàn vào bên
trong. Đây là gian thờ cúng vua Tự Đức trước đây là nơi làm việc của vua. Tại đây sẽ giới thiệu đến quý
vị 1 số nét độc đáo trong khu vực này. Đầu tiên là những bức tranh gương được treo phía trên. Đây là
những bức tranh được vua Tự Đức đặt vẽ bên Trung Hoa, những hình ảnh trong tranh được họa theo
những vần thơ của vua cha Thiệu Trị sáng tác, nhưng nét độc đáo nhất của bức tranh chính là cách vẽ âm
bản hay còn gọi là vẽ ngược từ phía sau gương, nhờ đó mà những bức tranh này vẫn còn giữ nguyên được
màu sắc mặc dù đã trải qua cả trăm năm.
Ngoài ra trong khu vực án thờ chúng ta sẽ thấy được 2 bài vị, 1 cao 1 thấp, 1 bài vị của vua Tự
Đức bài vị còn lại của bà Lệ Thiên Anh Hoàng Hậu. Bài vị thấp được đặt bên trái, bài vị cao đặt bên phải
theo hướng quay mặt ra cửa. Và theo quý vị mình thì bài vị nào là của vua Tự Đức bài vị cao hay thấp.
Theo như bình thường thì ai cũng nghĩ bài vị cao sẽ là của vua cài còn lại là của hoàng hậu. Nhưng chính
xác thì bài vị thấp mới là của vua Tự Đức. Vì theo quan niệm xưa thì phía bên trái luôn được coi trọng
hơn nên người quan trọng sẽ được đặt bên trái (nam tả nữ hữu). Nhưng tại sao bài vị của vua lại nhỏ hơn
của hoàng hậu là vì vua Tự Đức mất năm 1883 còn Lệ Thiên Anh Hoàng Hậu mất năm 1903 tức là mất
sau vua Tự Đức 20 năm nên do bối cảnh lịch sử, do người làm bài vị cho vua và hoàng hậu là 2 người
khác nhau nên mới có sự không cân xứng như vậy.
Và kính thưa quý vị mặc dù bà Vũ Thị Duyên được phong tới chức hoàng hậu nhưng theo 1 số tài
liệu cho rằng người phụ nữ mà được vua Tự Đức yêu mến nhất có tên là Nguyễn Thị Bằng. Một bài thơ
rất nổi tiếng của vua Tự Đức sáng tác có tựa đề là Khóc Bằng Phi để nói lên niềm tiếc thương vô hạn của
nhà vua đối với cái chết của bà mà còn được lưu truyền cho tới ngày nay.
" Ới Thị Bằng ơi đã mất rồi
Ới tình, ới nghĩa, ới duyên ôi
Mưa hè, nắng cháy, oanh ăn nói
Sớm ngõ, trưa sân, liễu đứng ngồi
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại, để dành hơi
Mối tình muốn dứt càng thêm bận
Mãi mãi theo hoài chứ chẳng chơi."
Một số giả thuyết cho rằng bài thơ này không phải vua Tự Đức sáng tác
Đây là một bài thơ Nôm có giá trị văn chương rất cao, kể cả về hình thức lẫn nội dung. Lãng mạn
nhất là ở 2 câu 5, 6 “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng, xếp tàn y lại, để dành hơi”: vì quá nhớ thương nên đập
vỡ tấm gương mà nàng đã từng soi để mong thấy lại được hình ảnh của nàng trong đó, và xếp chiếc áo cũ
mà nàng đã từng mặc, đem cất kỹ để giữ lại chút hơi âm của người mình yêu. Qua bài thơ ít nhiều cũng
cho chúng ta thấy được 1 tâm hồn thơ của vua Tự Đức, được biết ông là 1 người ham học hỏi, có tầm hiểu
biết rộng và cũng thích sáng tác. Vua Tự Đức cũng cho làm nhiều thơ chữ Hán: trong đó có bộ Việt sử
tổng vịnh, vịnh hàng trăm nhân vật trong lịch sử Việt Nam, cũng có một số bài xuất sắc. Ông còn làm cả
thơ Nôm, có những tập như Luận Ngữ diễn ca, Thập điều diễn ca v.v. Với sự chuyên tâm ham thích và
khối lượng sáng tác lớn (500 bài thơ chữ Hán, 400 bài thơ chữ Nôm), mà người ta thường cho ông là 1
nhà thơ, một ông vua "văn học". Cũng có nhiều giai thoại nói về tâm hồn yêu thơ ca của ông (kể giai
thoại làm thơ gởi nhà Thanh).
Kính thưa quý vị bây giờ đoàn rời khỏi Hòa Khiêm Điện để đến nơi tiếp theo trong khu vực tẩm,
đó là Lương Khiêm Điện. Nếu Hòa Khiêm Điện là nơi làm việc của vua Tự Đức sau này trở thành nơi thờ
cúng của vua thì Lương Khiêm Điện là nơi ăn nghỉ sau này trở thành nơi thờ cúng bà Từ Dụ là mẹ của
vua Tự Đức. Có thể nói bà là người phụ nữ quyền lực nhất trong triều nhà Nguyễn. Nếu triều Nguyễn có
13 đời vua thì bà đã sống và chứng kiến hết 9 đời vua nhà Nguyễn. Bà thọ 92 tuổi mất 1902 bà có cách
dạy con rất hay nên vua Tự Đức được xem là vị vua hiếu thảo nhất nhà Nguyễn.
kể 1 số câu chuyện hiếu thảo của vua Tự Đức: Chuyện ngày chẳn thiết triều, ngày lẻ vào chầu
Thái hậu và tham vấn mẹ việc triều đình. Vua thường ghi lại những lời khuyên của mẹ thành tập "Từ huấn
lục"; Chuyện đi săn trễ ngày giỗ kỵ vua cha; Chuyện nhờ Thiền sư Trần Hữu Đức chữa bệnh cho bà Từ
Dụ.
Qua những câu chuyện trên đã cho chúng ta thấy được 1 đức tính rất đáng khâm phục của Tự
Đức, một tấm lòng hiếu thảo sâu sắc đối với mẹ, mà hiếm có vị vua nào sánh được, đây là 1 điều rất đáng
trân trọng để người đời noi theo.
Rời khỏi Lương Khiêm Điện xin mời quý vị tiếp tục đến Minh Khiêm Đường đây được xem là
nhà hát tuồng cổ nhất Việt Nam còn là nơi giải trí xem hát tuồng cùa nhà vua. Ngoài việc sáng tác thơ vua
Tự Đức còn là 1 người rất yêu nghệ thuật, ông đã tập trung về kinh đô Huế nhiều nhà soạn kịch bản
tuồng, và cho soạn những vở tuồng lớn như Vạn bửu trình tường, Quần phương hiến thụy (diễn hơn hàng
trăm đêm mới xong).
Sau khi tham quan xong phần tẩm bây giờ xin mời quý vị tiếp tục duy chuyển qua tham quan
phần tiếp theo là phần lăng nơi an táng thi hài của vua Tự Đức. Và trước mặt quý vị là khu vực sân chầu 2
bên có 2 hàng voi ngựa, quan quân theo hầu. Quan văn bên trái quan võ bên phải vì theo quan niệm
Phong Kiến thì quan văn được xem trọng hơn nên được đặt bên trái như quý vị đã từng nghe câu:
"Trâu buột thì ghét trâu ăn
Quan võ thì ghét quan văn dài quần"
Kế đó chúng ta sẽ thấy 1 công trình được xem là kiên cố nhất trong 50 công trình của lăng vua Tự
Đức đó là bi đình nơi để che nắng mưa tấm bia đá lớn nhất Việt Nam với trọng lượng 20 tấn được gọi là
Bia Khiêm Cung Ký. Trên đó có khắc gần 5000 chữ Hán. Theo đúng qui định thì sau khi 1 vi vua băng hà
thì người con nối nghiệp có nhiệm vụ dựng tấm bia đá này với mục đích ca ngợi công lao của vua cha.
Nhưng do vua Tự Đức không có con nên nội dung trên Khiêm Cung Ký này là do đích thân ông sọan thảo
và được xem như 1 bản tự kiểm điểm bản thân. Về nội dung bài văn bia Khiêm Cung Ký gồm các nội
dung như sau:
Thứ 1: nói về cuộc đời lúc còn trẻ của vua Tự Đức, sức khỏe thì yếu đuối hay mắc bệnh, 3 tuổi đã
sớm xa bầu sữa mẹ.
Thứ 2: Nói về lý do tại sao lại xây lăng này và giải thích tại sao lại có tên Khiêm lăng, khiêm ở
đây có nghĩa là khiêm tốn, khiêm nhường xin trích 1 đoạn trong Khiêm Cung Ký như sau: "Khiêm là kính
là nhường, thân mang chịu ô nhục và tội lỗi uốn mình, lại năng công đức gì mà chẳng khiêm"
Thứ 3: Giải thích với người sau rằng ông không phải là người giết anh cướp ngôi: kể 1 số câu
chuyện về vua Tự Đức và người anh Hồng Bảo.
Thứ 4: Nội dung cuối cùng là ông để lại câu hỏi cho người sau tự phán xét, do xin ra trong 1 thể
trạng ốm yếu thường xuyên đau bệnh, lên ngôi trong cảnh nồi da nấu thịt anh em tương tàn, lại gặp cảnh
giặc ngoại ban xâm chiếm. Với vô vàng những khó khăn mà ông phải gánh chịu cùng với những việc làm
lúc ông tại vị thì theo quý vị mình ông là người có công hay có tội. Như vua Tự Đức đã viết "còn như
công việc của ta hay dở thế nào thì đã có ngọn bút của các nhà viết sử".
Và bây giờ xin mời quý vị đến viếng khu vực an táng thi hài của vua Tự Đức đó là Huyền Cung:
Đặt câu hỏi xem có hay không thi hài của vua Tự Đức, nên các nguyên nhân không có thi hài.
+ Lòng tham con người: người Pháp đã đào mộ vua Tự Đức 1912, lăng bà Từ Dụ cũng đã bị đào
lên phát hiện 12 lượng vàng.
+ Long mạch: vùng đất tốt nếu ai được chôn tại đó thì con cháu được hưởng phúc nhiều đời, sợ bị
phá long mạch.
+ Sợ bị trả thù: năm 1970 chuyện nhà Tây Sơn cho đào mộ Nguyễn Phúc Luân cha của Nguyễn
Ánh lên chặt đầu lấy đầu cho thả xuống sông Hương, sau này vua Gia Long cho đem chôn đầu sọ của cha
mình, ở Huế có Sọ Lăng. Vua Gia Long trả thù đào mộ vua Quang Trung lên. Nên các vị vua triều
Nguyễn được dặn dò không được cho biết thi hài mình ở đâu để tránh việc triều đại sau báo thù.
Và đây chính là khu vực cuối cùng trong chuyến viếng thăm lăng Tự Đức, cũng hi vọng rằng qua
chuyến viếng thăm này đã giúp quý vị mình ít nhiều hiểu hơn về cuộc đời sự nghiệp cai trị, cũng như con
người của vị vua này.