Du Lịch Kon Tum

Du Lịch Kon Tum Contact information, map and directions, contact form, opening hours, services, ratings, photos, videos and announcements from Du Lịch Kon Tum, Tourist Information Center, Kon Tum.
(2)

27/08/2015

Di tích lịch sử cách mạng Điểm cao 601.
Di tích lịch sử cách mạng Điểm cao 601 được UBND tỉnh Kon Tum ra quyết định số 754/QĐ-UB ngày 21 tháng 7 năm 2003 công nhận là di tích cấp tỉnh.Di tích lịch sử cách mạng Điểm cao 601 thuộc địa phận thôn 3, xã Đăk La, và thôn 5 xã Hà Mòn, huyện ĐăkHà, tỉnh Kon Tum, cách trung tâm thành phố Kon Tum về hướng Bắc theo quốc lộ 14 khoảng 17km.
- Điểm cao 601 là thuật ngữ quân sự gọi cứ điểm quân sự của địch trên đồi K’Rang Loong Phă. Cho đến đầu năm 1972, điểm cao vẫn là một chốt điểm quân sự quan trọng của địch, gồm có trận địa pháo binh và xe tăng được bố trí trên hai mỏm đồi hình yên ngựa. Phía Bắc có đồn Bảo an Hà Mòn do tiểu đoàn Bảo an số 23 đóng giữ có xe thiết giáp tăng cường. Phía có Sở chỉ huy Lữ đoàn dù 3, trận địa pháo lớn, xe tăng, xe bọc thép chốt giữ. Ngoài ra còn có các trận địa pháo, đồn Bảo an của địch ở Kon Trang Klả; Bãi ủi; Bắc thị xã Kon Tum. Với vị trí chiến lược quân sự quan trọng, chiếm được điểm cao 601 là khống chế được phần lớn thị xã Kon Tum cũng như¬ toàn bộ vùng Đăk Tô - Tân Cảnh. Chiếm được Điểm cao 601 là làm chủ được hoàn toàn con đường chiến lược 14, đoạn phía bắc Tây Nguyên.
- Nhận rõ được tầm quan trọng của Điểm cao 601, thực hiện chủ trương của Đảng, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt Trận Tây Nguyên mở chiến dịch Bắc Tây Nguyên với nhiệm vụ tiêu diệt địch, giải phóng ĐăkTô- Tân Cảnh, có điều kiện thuận lợi giải phóng thị xã Kon Tum, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cấp trên giao trong chiến dịch Xuân-Hè 1972. Để thực hiện mục tiêu, tiêu diệt địch ở ĐăkTô- Tân Cảnh Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt Trận Tây Nguyên chủ trương tập kích đánh địch tại một số điểm trên tuyến quốc lộ 14 nhằm cắt đứt chi viện của địch.
-Trong hai ngày mồng 10 và 11 tháng 4 năm l972, với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, ta đã thắng lớn tại Điểm cao 601. Kết quả thu được: Diệt gọn 2 chi đội thiết giáp địch, một đoàn xe hàng, phá hủy 28 xe (có 14 xe tăng, xe thiết giáp M113 và 14 xe vận tải), phá hủy 72 tấn hàng quân trang, quân dụng, diệt gọn một trung đội bảo an, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội dù, đánh thiết hại sở chỉ huy lữ đoàn dù 23, trận địa súng cối, diệt hàng trăm tên địch, bắn rơi 2 máy bay, phá hủy 2 khẩu cối 106,7 mm, thu hơn 15 súng các loại, ta cắt đứt hoàn toàn đường 14. Cùng với bộ đội địa phương và dân quân du kích, đây là trận đánh cắt giao thông có hiệu suất cao của Trung đoàn 28 trong chiến dịch Xuân - Hè 1972 ở Tây Nguyên.
- Kể từ sau ngày ký Hiệp định Pa ri (từ đầu năm 1973 đến 1975), khu vực Điểm cao 601, Dốc K’Rang Loong Phă (Dốc Đầu Lâu) và toàn bộ khu vực ĐăkLa, Hà Mòn là vùng tranh chấp giữa ta và địch. Tại đây đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh chính trị gay gắt quyết liệt, có khi phải dùng cả vũ trang quân sự để giành từng tấc đất với địch: Với chủ trương đúng đắn của cấp trên cộng với trí thông minh m¬ưu lược và lòng dũng cảm của quân và dân ta, mặc dù phải chịu nhiều gian khổ hi sinh, như¬ng ta đã giữ vững được toàn bộ vùng giải phóng ĐăkTô - Tân Cảnh đến Diên Bình, Hà Mòn và kiểm soát được khu vực Đăk La góp phần giải phóng thị xã Kon Tum.

27/08/2015

Di tích lịch sử - văn hóa Chùa Tổ Đình Bác Ái.
Di tích lịch sử văn hóa Chùa Tổ Đình Bác Ái được UBND tỉnh Kon Tum ra quyết định số 11/QĐ-CTUBND ngày 08 tháng 01 năm 2009, công nhận là di tích cấp tỉnh. Vị trí di tích được tọa lạc trên một gò đất cao thuộc khối phố 3 phường Quyết Thắng, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum
- Chùa Tổ Đình Bác Ái xây dựng vào năm 1933, được xem là một công trình kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng mang phong cách kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn, theo mô phỏng của kiến trúc Huế.
- Chùa Tổ Đình Bác Ái là nơi hội tụ của ba yếu tố văn hóa Phật giáo, Đạo giáo và văn hóa tín ngưỡng dân gian của người Kinh mà nổi bật là văn hóa miền Trung. Điều đó được thể hiện qua công trình kiến trúc và hệ thống tượng thờ trong dân gian như Chánh điện, như tượng Tam Thế Phật, Di Đà Tam Tôn, Hoa Nghiêm Tam Thánh (Phật giáo), Tam Tòa Thánh Mẫu (tín ngưỡng dân gian) hay Quan Thánh Đế Quân, Ngọc Hoàng, Nam Tào Bắc Đẩu (đạo giáo). Ngoài văn hóa của người Kinh ở đây còn có sự giao thoa văn hóa Chăm qua việc thờ Mẫu Thiên Y A Na ở gian thờ Mẫu.
- Chùa Tổ Đình Bác Ái còn đánh dấu sự có mặt của cơ sở Phật giáo đầu tiên tại tỉnh Kon Tum nói riêng và Tây Nguyên nói chung, là nơi ghi dấu sự hiện diện của vị vua cuối cùng Triều Nguyễn (Bảo Đại) ngự giá, ban Sắc và đặt tên là Sắc Tứ Bác Ái Tự vào ngày 03 tháng 10 năm 1933.
- Ngoài giá trị về mặt lịch sử kiến trúc, chùa Tổ Đình Bác Ái còn lưu giữ một số hiện vật quí giá có giá trị về mặt nghệ thuật tạo hình, trang trí hoa văn, họa tiết như: tượng Quan Âm, bức Hoành Phi, câu đối, hộp sắc phong, Bửu ấn, tượng Tam Tòa Thánh Mẫu.
- Chùa Tổ Đình Bác Ái còn có ý nghĩa rất lớn đối với nhân dân người Kinh khi đến Kon Tum sinh cơ lập nghiệp. Đây là cơ sở để họ tìm đến những giáo lý Phật giáo, tìm đến truyền thống cổ xưa của cha ông, tìm đến giá trị văn hóa của nhân loại, từ đó làm phong phú thêm những giá trị văn hóa tâm linh của người Kinh trên mảnh đất Kon Tum.

26/08/2015

Hồ Đăk Ui- Con đập mùa xuân

Di tích lịch sử cách mạng căn cứ khắng chiến ở Đăk Ui được UBND tỉnh Kon Tum ra quyết định số 60/QĐ-UB ngày 24 tháng 01 năm 2005 công nhận là di tích cấp tỉnh. Vị trí di tích hiện nay thuộc 2 xã Đăk Ui và Đăk Pxy, huyện Đăk Hà tỉnh Kon Tum.
- Vùng đất này là nơi tập trung sinh sống của đồng bào dân tộc Xê Đăng. Nhân dân ở đây có tinh thần yêu nước, bất khuất trước mọi kẻ thù xâm lược từ thời thực dân Pháp đến đế quốc Mỹ. Đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nhân dân Đăk Ui với tinh thần đoàn kết phát huy truyền thống cách mạng, một lòng tin theo Đảng, Bác Hồ với sự mưu lược sáng tạo đã biết lợi dụng địa bàn hiểm trở tổ chức các cách đánh linh hoạt làm nhiều cuộc tấn công càn quét của địch vào vùng căn cứ Đăk Ui bị thất bại.
- Xã Đăk Ui là hình mẫu về xây dựng căn cứ du kích trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, làm gương sang để các xã, huyện trong vùng Tây Nguyên noi theo. Từ năm 1961 đến năm 1970 nhân dân xã Đăk Ui đã không ngại khó khăn gian khổ đóng góp rất nhiều sức người, sức của góp phần làm nên những thắng lợi quan trọng của phong trào cách mạng: đánh 289 trận, bắn rơi 6 máy bay của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 885 tên địch, diệt 6 xe, trong đó có 5 xe tăng, vót hàng triệu cây chông, đào 422 hầm chông, làm 114 thò, bố phòng 110 đợt, đóng góp vào nuôi quân 7757 gùi lúa, 10 tấn bắp, 1 triệu gốc mì…

26/08/2015

Di tích Ngục Đăk Glei:

Ngục Đăk Glei nằm ở phía Bắc thị trấn Đăk Glei, đi theo quốc lộ 14, thuộc xã Đăk Choong, huyện Đăkglei, tỉnh Kon Tum. Ngục ĐăKglei là loại hình di tích lich sử cách mạng được Bộ Văn hóa- Thông tin ra quyết định số 2307/QĐ-VHTT ngày 30 tháng 12 năm 1991 công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.
- Ngục Đăk Glei được thực dân Pháp xây dựng năm 1932, ban đầu chúng giam giữ những thường phạm là người địa phương chống đối chính sách cai trị cảu nhà cầm quyền. Trong những tháng mùa khô thực dân Pháp dùng để giam cầm những tù nhân chính trị ở Kon Tum bị bắt lên làm đường 14. Sau phong trào cách mạng 1936-1939, thực dân Pháp biến nơi đây thành “Căng an trí” để cầm cố những tù nhân Cộng sản. Trong đó có những chiến sĩ cộng sản cách mạng nổi bật và tiêu biểu như: Tố Hữu, Nguyễn Duy Trinh, Huỳnh Ngọc Huệ, Trần Văn Trà….
- Năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, nắm thời cơ, phối hợp cùng với quần chúng cách mạng ở Đăk Glei, các chiến sỹ Cộng sản đã vùng dậy phá Nhà ngục về với cách mạng.

26/08/2015

Măng Đen Kon Tum qua từng góc ảnh

26/08/2015

Du lịch Kon Tum tư vấn, hướng dẫn miễn phí dành cho du khách khi đến với Kon Tum

26/08/2015

Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Măng Đen.

Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Măng Đen được Bộ Văn hóa- Thông tin ra quyết định số 06/QĐ-BVH ngày 13 tháng 4 năm 2000 công nhận là di tích cấp quốc gia. Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Măng Đen thuộc địa phận lâm trương Măng Cành1, xã Măng Cành, huyện KonPlong, tỉnh Kon Tum, cách trung tâm huyên KonPlong 10km về phía Đông Bắc.
Lịch sử Di tích:
- Khu vực Măng Đen được ví như “nàng tiên” giữa đại ngàn là nơi đồng bào dân tộc Xê Đăng sống từ rất lâu đời, là nơi có vị trí chiến lược quan trọng nằm trên trục đường số 5 (nay là Quốc lộ 24), nơi tiếp giáp giữa Kon Tum với vùng căn cứ cách mạng thuộc các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi. Tại đây đã xảy ra nhiều cuộc giao tranh quyết liệt giữa ta và địch trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, quân và dân ta đã lập được nhiều chiến công lớn, tiêu biểu là trận tấn công tiêu diệt cứ điểm Măng Đen (tháng 10-1974).
- Cùng với vị trí quan trọng về mặt quân sự, Măng Đen còn được thiên nhiên ưu đãi về điều kiện tự nhiên thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng, bởi mức nhiệt trung bình khoảng 20-30độ C, Măng Đen còn đặc biệt quyến rũ bởi rừng thông từ 30 - 70 năm tuổi. Ngoài bạt ngàn cây xanh, ở Măng Đen còn có nhiều suối, hồ nước, thác đẹp nổi tiếng như: Paish, Dakke, Lô Ba và những hồ thơ mộng: Toong Zơri, Toong Pô, Toong Đam.... gắn liền với truyền thuyết của người M’nâm về Măng Đen tạo nên những ý nghĩa nhân văn sâu sắc, mang nhiều tiềm năng du lịch to lớn cho khu vực này.

- Cụm Di tích lịch sử cách mạng kháng chiến Măng Đen nguyên là cứ điểm quân sự được địch xây dựng kiên cố, vững chắc. Cụm Di tích danh lam thắng cảnh gồm các hồ nước tự nhiên, hai ngọn thác, những cánh rừng thông tự nhiên và thông trồng. Đẹp nhất là khu vườn thực nghiệm trồng rất nhiều loại rau, hoa xứ lạnh để phục vụ nhu cầu của người dân và du khách. Người dân ở đây cũng bắt đầu nuôi cá Hồi với lời tuyên bố: “Khí hậu Măng Đen thích hợp nhất cho giống cá Hồi trên đất nước Việt Nam”. Đến nay cụm di tích và danh thắng Măng Đen về cơ bản vẫn còn nguyên vẹn theo cảnh quan tự nhiên vôn có của nó. Hiện nay được sự quan tâm của tỉnh nhà nên khu vực này được đầu tư xây dựng, phát triển và hi vọng sẽ trở thành “Đà Lạt 2” trong thời gian sớm nhất.

26/08/2015

Du Lịch Kon Tum's cover photo

26/08/2015

Nguồn gốc tên gọi Kon Tum.

1. Nguồn gốc tên gọi “Kon Tum” xuất phát từ truyền thuyết của người Ba Na.
Tên gọi “Kon Tum” bắt nguồn từ truyền thuyết của người dân tộc Bana,. Kon Tum trước đây là tên gọi của một làng người dân tộc BaNa. Dịch từ tiếng BaNa Kon Tum, có nghĩa là "làng Hồ" (Kon là làng, Tum là hồ, ao, bàu nước,...). Khoảng 1800 năm trước thì chưa có tên gọi Kon Tum, vì chưa có làng ấy, làng ấy chưa xuất hiện.
2. Truyền thuyết của người Ba Na kể về sự tích dẫn đến sự ra đời của tên gọi Kon Tum.
- Theo truyền thuyết của dân tộc Ba Na vùng này được lưu lại rằng: Kon Tum ban đầu chỉ là tên gọi của một làng người Ba Na. Khoảng trước năm 1800 thì không có tên gọi Kon Tum, vì làng Kon Tum chưa xuất hiện. Thuở ấy, trong vùng người Ba Na (thuộc thành phố Kon Tum ngày nay) có làng người địa phương ở gần sông Đăk Bla tên gọi là Kon Trangor (về sau gọi là Chư Hreng). Lúc ấy làng Kon Trangor rất thịnh vượng, với dân số khá đông. Bấy giờ giữa các làng luôn có sự gây chiến đánh nhau. Vì thế những người đồng bào làng Kon Trangor cũng thường đem dân làng mình đi đánh phá các làng khác để chiếm đoạt của cải và bắt người về làm nô lệ.
- Trong số những người có thế lực ở làng Kon Trangor ấy, có một người con trai tên là Jaxi rất thật thà, hiền lành và chăm chỉ nên không muốn đi đánh nhau nên bị bọn người kia thường xuyên uy hiếp. Jaxi có hai người con trai tên là Jơ Rông và Jơ Uông. Hai người con trai này củng không thích cảnh đánh nhau của những người đồng bào vùng này luôn gây chiến đánh nhau với các làng khác, thấy bọn người kia hung dữ nên hai con của Jaxi không muốn sống chung trong làng nữa mà muốn đi ở riêng nơi khác. Một hôm hai anh em nhà họ lập kế đánh nhau để bị đuổi ra khỏi làng.
- Jơ Rông và Uông vui mừng đi làm nhà ở riêng, nhà ở mới gần chỗ có hồ nước cạnh sông Đăk Bla. Vùng đất này rất tốt và có nhiều thuận lợi cho việc định cư sinh sống nên dần dần có nhiều người đến ở, mỗi ngày một phát triển thêm đông, lập thành một làng mới ở nơi có nhiều hồ nước trũng với tên gọi Kon Tum. Từ đó, Kon Tum trở thành tên gọi chính thức cho một làng mới lập ra của người Ba Na sát bên bờ sông Đăk Bla, có nghĩa là "làng Hồ" (Kon là làng, Tum là hồ, ao, bàu nước,...).Và từ đó Kon Tum trở thành tên gọi của một làng mới của người dân tộc Bana.

25/08/2015
Suối nóng Đăk Tô - Thác Đăk Lung

Bạn đến nơi này chưa?

Travel News Vietnam,Vietnam Travel News,Vietnam Travel Information,Vietnam Tourist,Vietnam News,Vietnam Lastest News,Vietnam Tourism News,Vietnam Travel Advice,Vietnam Hotels & Travel Information,Travel News Daily

25/08/2015

Di tích lịch sử Ngục Kon Tum
- Ngục Kon Tum đã được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa - Thể thao và du lịch) chính thức công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 1288/VH-QĐ ngày 16 tháng 11 năm 1988. Di tích lịch sử Ngục Kon Tum gắn liền với những sự kiện lịch sử cách mạng của dân tộc ta nói chung và dân tộc tỉnh Kon Tum nói riêng, đó là sự ra đời của chi bộ Đảng Công sản đầu tiên ở tỉnh Kon Tum, trở thành ngày truyền thống của Đảng bộ tỉnh Kon Tum và cuộc đấu tranh lưu huyết vang động núi rừng của các chiến sỉ tù chính trị bị giam cầm tại Ngục Kon Tum 12/12 và ngày 16/12/1931.
- Vị trí Di tích hiện nay: Ngục Kon Tum nằm trên đường Trương Quang Trọng-tổ 1-phường Quyết Thắng-Thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Là nơi giam giữ các chiến sĩ cộng sản trong giai đoạn 1930-1934. Những ngôi mộ của các chiến sĩ cộng sản, nhà ngục và các vật chứng tại đây là dấu tích, là minh chứng hùng hồn về một cuộc đấu tranh đầy đau thương, oanh liệc nhưng rất vẻ vang kiên cường của các chiến sĩ cách mạng trên con đường giải phóng dân tộc.
*Lịch sử Di tích:
Nhà Ngục Kon Tum do thực dân Pháp xây dựng bao gồm 02 lao: Lao trong và Lao ngoài.
- Lao trong: Là nhà lao cấp tỉnh, được thực dân Pháp dựng lên ngay khi thiết lập được bộ máy cai trị ở tỉnh Kon Tum (khoảng từ năm 1915-1917), nằm ở gần sông Đăk Bla, cách đường quốc lộ 14 trên 1.000 mét về phía tây, gần với toà nhà làm việc của viên công sứ Pháp, của giám binh, trụ sở của tên quản đạo và trại lính bảo an.
Nhà lao này ban đầu xây dựng không kiên cố, với bốn dãy nhà liền nhau tạo thành một hình vuông theo kiểu pháo đài Vôbăng(Vauban) của Pháp. Mặt trước bốn dãy nhà đều hướng vào một sân rộng mỗi chiều 18 m. Nhà lợp ngói, tường đất, xung quanh không có tường cao, hàng rào đơn giản không chắc chắn. Cả khu vực nhà lao chỉ có một cửa ra vào và hai chòi gác cao có thể quan sát được cả trong và ngoài lao. Ngăn cách giữa sân với các phòng giam là hàng rào chắn song bằng gỗ dày, cứng chắc. Mỗi nhà giam có chiều rộng 3,5m, trong đó dành 2m lát ván nằm cho tù nhân, 1,5m là đường đi lại. Hai đoạn đầu của 2 dãy nhà ngang dọc ấy ngăn thành 4 phòng nhỏ hẹp, trong đó có 3 cái để giam phạt tù và một phòng cạnh cổng ra vào là nơi làm việc của xếp lao. Bảo vệ nhà lao có đơn vị lính khố xanh thường xuyên thay nhau canh giữ rất nghiêm ngặt.
- Lao ngoài (hay còn gọi là lao kẽm, lao sắt, lao cầu mới): Nhà lao này được thực dân Pháp xây dựng khoản tháng 3-1931. Mục đích là nhằm để tạm giam tù từ công trường làm đường 14 ở Đăk Pao, Đăk Pét trở về Thị xã "tạm" nghỉ trong 6 tháng mùa mưa, nên có tính chất tạm bợ. Nó nằm cách trung tâm thị xã khoảng 2 km về phía tây, cạnh sát bờ sông Đăk Bla. Gồm 2 nhà giam: nhà lớn dài khoảng 18-20 m, rộng 12 m. Bên trong có 4 sạp tù nằm dài, có thể giam giữ được trên dưới 100 tù nhân; nhà nhỏ có 2 sạp, giam được 50 tù nhân. Ở giữa 2 nhà là nhà lính gác. Cửa ra vào được làm bằng thép g*i chằng chịt và trước cửa có một chòi gác của lính. Đặc điểm nổi bật của nhà lao này là xung quanh không có thành xây giữ kín như các nhà lao khác, bốn bề trống trải, không có nơi ẩn nấp, nên hễ khi tù nhân bỏ trốn thì dễ bị lính gác phát hiện. Do đó, việc thiết kế của lao ngoài tuy nhìn vào đơn giản, nhưng có chủ ý rất thâm sâu.
- Nhà lao Kon Tum lúc đầu giam giữ những người địa phương bị thực dân Pháp ghép vào “tội” chống đối hoặc vi phạm “pháp luật” của chúng. Từ cuối năm 1929 đến giữa năm 1930, có 2 tù chính trị được đưa lên giam giữ tại đây là đồng chí Đổng Sỹ Bình và đồng chí Ngô Đức Đệ. Sau thất bại của Cao trào cách mạng Xô Viết-Nghệ Tĩnh (1930-1931), thực dân Pháp tiến hành đàn áp, truy ráp, bắt bớ hàng loạt các chiến sỹ Cộng sản và quần chúng giác ngộ tham gia cuộc đấu tranh đem giam giữ chật kín các nhà lao ở các tỉnh Trung châu, tù chính trị bị đày lên nhà lao Kon Tum ngày càng đông.
Sự kiện thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên (Chi bộ binh) ở Lao trong.
- Tại đây với bản lĩnh và sự khôn khéo của người chiến sĩ cộng sản cách mạng, đồng chí Ngô Đức Đệ đã tuyên truyền cảm hóa được các ông đội, ông cai, binh lính trong hàng ngủ địch trở thành những người yêu nước tiến bộ, rồi đến với Đảng trở thành những người cộng sản.
- Ngày 25 tháng 9 năm 1930 chi bộ Đảng Cộng sản trong binh lính nhà lao Kon Tum được thành lập gồm 04 đảng viên (đồng chí Ngô Đức Đệ - bí thư và các đồng chí Huỳnh Đăng Thơ, Huỳnh Liễu, Nguyễn Cừ). Đồng chí Ngô Đức Đệ là người có công thành lập ra tổ chức Đảng Cộng sản đầu tiên ở Kon Tum. Ngày 25-9 đã trở thành ngày truyền thống của Đảng bộ tỉnh Kon Tum.
Cuộc đấu tranh Lưu huyết của các tù nhân chính trị ở Lao ngoài (ngày 12-12-1931) và cuộc đấu tranh tuyệt thực (từ ngày 13 đến ngày 16-12-1931).
- Ở ngoài lao, sau khi thực dân Pháp đưa đoàn tù chính trị từ công trường làm đường Đăk Pao, Đăk Pét trở về giam cầm trong 06 tháng mùa mưa. Do lường trước được âm mưu độc ác của thực dân Pháp với tinh thần sẳn sàng đối phó, với quyết tâm đấu tranh đến cùng. Tại đây ngày 12 tháng 12 năm 1931 khi bọn cầm quyền tiến hành ly gián tù binh và chuẩn bị đưa một số anh em còn lại lên Đăk Pét lần 2, anh em tù chính trị ở Lao ngoài đã đấu tranh quyết liệt, chống lại âm mưu của chính quyền cai trị, bọn địch điên cuồng sã súng dã man tàn sát đẫm máu anh em tù chính trị làm 08 người chết, 08 người bị thương.
- Tiếp đến tại Lao trong số anh em tù còn lại đã tổ chức tuyệt thực phản đối từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 12 năm 1931. Sáng ngày 16 tháng 12 năm 1931 thực dân Pháp lại một lần nữa nã súng vào tàn sát cuộc đấu tranh tuyệt thực làm cho 07 đồng chí hi sinh và 08 đồng chí bị thương, đồng thời lập tức áp giải và phân tán số tù nhân còn lại, dập tắt cuộc đấu tranh.
Cả hai đợt đấu tranh trực diện, thực dân Pháp đã giết hại 15 đồng chí và làm bị thương 16 đồng chí. Tuy vậy, sau cuộc đấu tranh này nhà cầm quyền Pháp buộc phải thả 50 người tù chính trị có án nhẹ và một số tù thường phạm; phải nhượng bộ bằng việc thay đổi chế độ lao dịch của tù, bỏ chế độ đánh đập tù nhân, người tù ốm đau được nghỉ và có thuốc men. Tháng 12-1932, địch bỏ hẳn việc đưa tù chính trị đi làm đường 14. Tháng 4-1934, thực dân Pháp phải xóa bỏ nhà đày Kon Tum và đưa tất cả số tù chính trị còn lại vào nhà đày Buôn Ma Thuột.
Ý nghĩa của Di tích lịch sử ngục Kon Tum đối với Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Kon Tum.
- Di tích lịch sử ngục Kon Tum và cuộc đấu tranh Lưu huyết, với tinh thần quyết liệt, chấp nhận hy sinh của các tù nhân chính trị vì mục tiêu cao cả "Chết để sống", "Chết một người để cứu muôn người" đã thể hiện được bản lĩnh, khí phách hiên ngang của các chiến sĩ Công sản trước lưỡi lê, mũi súng tàn bạo của quân thù, thể hiện ý chí khát vọng vươn lên đấu tranh tìm đến chân lý độc lập, tự do cho mọi người, cho dân tộc.
- Sự hy sinh anh dũng, bất khuất của các anh em tù chính trị trong nhà lao Kon Tum đã gây được tiếng vang lớn đối với dư luận thế giới về quyền tự do công lý và nhân phẩm con người, tạo cho dư luận trong nước và thế giới được rõ hơn về chính sách cai trị lao tù của thực dân Pháp ở Đông Dương, đã lật tẩy được bộ mặt đê hèn với sự giả danh của ngọn cờ "tự do", "bình đẳng", "bác ái" của bọn thực dân Pháp .
- Hình ảnh các chiến sĩ ngã xuống tại Ngục Kon Tum để giữ gìn khí tiết người Cộng sản đã tác động sâu sắc đến đồng bào các dân tộc Kon Tum, đến binh lính, công chức trong hàng ngũ địch, làm cho nhân dân các dân tộc Kon Tum hiểu rõ hơn về chế độ lao tù, về những người Cộng sản và về Đảng quang vinh. Nhiều binh lính, công chức trong hàng ngũ địch đã giác ngộ theo cách mạng.
- Cuộc đấu tranh Lưu huyết quyết liệt ấy đã thể hiện tinh thần quyết tâm sắt đá, là mệnh lệnh thiêng liêng của trái tim, khối óc của các chiến sĩ Cộng sản trước vận mệnh sống còn của quốc gia, dân tộc. Tuy cuộc đấu tranh bị bọn thực dân tàn sát đẫm máu, nhưng kết quả đạt được là rất vẻ vang, đã buộc địch phải thay đổi chế độ cai trị hà khắc và chấp nhận nhượng bộ theo yêu sách của anh em tù chính trị đưa ra. Và nhất là từ bỏ việc xây dựng con đường 14 xâm lược, từ bỏ hoàn toàn nhà Ngục Tum-lò giết những người Cộng sản vào năm 1934 đã chứng minh sự thừa nhận thất bại của thực dân Pháp trước tinh thần đấu tranh quyết tử của tù chính trị và nhân dân các dân tộc tỉnh Kon Tum.
- Hình ảnh những người tù chính trị đã đi vào lịch sử một Ngục Kon Tum kiên cường, bất khuất - một biểu tượng về lòng yêu nước, tinh thần bất khuất, kiên trung, anh dũng của những người Cộng sản. Các anh đã tô thắm thêm truyền thống yêu nước, đấu tranh cách mạng của quê hương Kon Tum anh hùng.
- Ngày nay di tích lịch sử Ngục Kon Tum càng có ý nghĩa sâu sắc đối với Đảng Bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Kon Tum, là nơi thôi thúc ý chí vươn lên của các thế hệ hôm nay và mai sau, để thế hệ chúng tôi hôm nay và mai sau học tập phát huy truyền thống yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất đấu tranh của cha ông trong thời kỳ dựng nước và giữ nước. Tinh thần và tấm gương anh dũng của những chiến sỹ Cộng sản, những quần chúng ưu tú của Đảng trong cuộc đấu tranh lưu huyết vang động núi rừng ngày ấy càng góp phần xứng đáng vào trong công cuộc xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu mạnh, vững bền. Những tấm gương ấy đã, đang và sẽ sống mãi trong trái tim người dân Kon Tum và cả dân tộc Việt Nam, trong lịch sử, hiện tại và tương lai.

25/08/2015

Di tích lịch sử chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh
- Di tích lịch sử chiến thắng Đăktô- Tân cảnh đã được Bộ Văn hóa- thông tin ra quyết định số 938/QĐ-VHTT ngày 04 tháng 8 năm 1992 công nhận là di tích cấp quốc gia. Di tích nằm trên một quả đồi có độ cao 600 m, cách thị trấn Đăk Tô 1 km về hướng Tây Bắc. Di tích nằm trên quốc lộ 14 đoạn từ Đăk Tô đi Ngọc Hồi.
Lịch sử Di tích:
- Đăk Tô-Tân Cảnh là căn cứ quân sự mạnh nhất của địch ở Bắc Tây Nguyên; là nơi địch tập trung mạnh mẽ sinh lực để chống lại các mũi tiến công của quân và dân ta. Tính đến đầu năm 1972 lực lượng quân sự của địch tập trung tại đây tổng cộng lên tới 28 tiểu đoàn bộ binh, 06 tiểu đoàn pháo binh, 04 tiểu đoàn thiết giáp.
- Trong chiến dịch Xuân Hè 1972 Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định mở chiến dịch Bắc Tây Nguyên, chọn hướng ĐăKtô- Tân Cảnh làm hướng chính của chiến dịch. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đã khẩn trương và tập trung sẳn sàng cho công tác quyết tâm “tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng”, cả mặt trận bừng bừng khí thế “Trường Sơn chuyển mình, PôKô dậy sóng, quét sạch quân thù, giải phóng nhân dân”
- Bằng sức mạnh của lòng yêu nước, căm thù giặc và ý chí quyết tâm kiên cường như vũ bão, với lự lượng lớn cả quân chủ lực và quân địa phương, tác chiến hợp đồng binh chủng diễn ra trong một thời gian khá dài và không gian khá rộng. Đúng 11h trưa ngày 24 tháng 04 năm 1972, lá cờ giải phóng đã tung bay trên đỉnh của trung tâm căn cứ địch, Đăktô- Tân Cảnh được giải phóng.

- Ý nghĩa của Chiến thắng ĐăkTô - Tân Cảnh ngày 24-4-1972: Chiến thắng ĐăkTô- Tân Cảnh ngày 24 tháng 04 năm 1972 đã đi vào lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ trường kì của dân tộc Việt Nam bằng những thành tích chói lọi với nhiều chiến công hiển hách trên chiến trường. Chiến thắng ĐăkTô - Tân Cảnh không chỉ đơn thuần là một trận đánh mà còn là một sự thay đổi toàn bộ trên cục diện chiến trường Tây Nguyên quan trọng mở ra khả năng tiến công và tiêu diệt địch với qui mô lớn trên toàn tỉnh có lợi cho thế và lực của cách mạng làm cho quân địch lún sâu vào thế bị động, mở ra bước phát triển mạnh mẽ về chính trị, kinh tế và quân sự, tạo tiền đề cho chúng ta tiếp tục tấn công địch trên thế chủ động để giải phóng hoàn toàn tỉnh Kon Tum, cổ vũ thêm tinh thần chiến đấu của quân và dân các dân tộc anh em trong tỉnh Kon Tum nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung, thúc đẩy công cuộc đấu tranh cả nước thêm mạnh mẽ, góp phần vào sự nghiệp giải phóng toàn Tây Nguyên, giải phóng toàn miền Nam thống nhất đất nước.

25/08/2015

Đường lên Măng Đen hôm nay

25/08/2015
Hồi sinh một làng nghề thổ cẩm | Saigontourist

Hồi sinh một làng nghề thổ cẩm | Saigontourist

Dệt thổ cẩm là nét văn hóa truyền thống lâu đời của bà con dân tộc Ba Na ở làng Plây Tơ Nghia, phường Quang Trung, thị xã Kon Tum (Kon Tum). Nhưng cũng như một số buôn làng khác ở Tây Nguyên,

25/08/2015

Hoàng hôn trên dòng sông Đăkbla

25/08/2015

Tổng quan về Kon Tum

Kon Tum, còn viết là Kontum, là một tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên của Việt Nam. Đây là tỉnh nằm về phía cực Bắc của Tây Nguyên, có vị trí địa lý nằm ở ngã ba Đông Dương, phần lớn nằm ở phía Tây dãy Trường Sơn.
Địa giới tỉnh Kon Tum nằm trong vùng tọa độ địa lý từ 107020'15" đến 108032'30" kinh độ Đông và từ 13055'10" đến 15027'15" vĩ độ Bắc. Phía Bắc Kon Tum giáp địa phận Quảng Nam với chiều dài ranh giới 142 km, phía Nam giáp Gia Lai với chiều dài ranh giới 203 km, phía Đông giáp Quảng Ngãi với chiều dài ranh giới dài 74 km[2], phía Tây có biên giới dài 142 km giáp tỉnh Attapeu thuộc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và 95 km[3] giáp với tỉnh Ratanakiri thuộc Vương quốc Campuchia.
ịa hình Kon Tum chủ yếu là đồi núi, chiếm khoảng 2/5 diện tích toàn tỉnh, bao gồm những đồi núi liền dải có độ dốc 150 trở lên[14]. Địa hình núi cao liền dải phân bố chủ yếu ở phía bắc - tây bắc chạy sang phía đông tỉnh Kon Tum, đa dạng với gò đồi, núi, cao nguyên và vùng trũng xen kẽ nhau khá phức tạp, tạo ra những cảnh quan phong phú, đa dạng vừa mang tính đặc thù của tiểu vùng, vừa mang tính đan xen và hoà nhập, Kon Tum có độ cao trung bình từ 500 mét đến 700 mét, riêng phía Bắc có độ cao từ 800 mét - 1.200 mét, đặc biệt có đỉnh Ngọc Linh cao nhất với độ cao 2.596 mét

Cảnh quang tại tỉnh Kon Tum

Khí hậu Kon Tum có nét chung của khí hậu vùng nhiệt đới gió mùa của phía Nam Việt Nam, lại mang tính chất của khí hậu cao nguyên. Khí hậu Kon Tum chia thành 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô[14]. Trong đó, mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm vào khoảng 2.121 mm, lượng mưa năm cao nhất 2.260 mm, năm thấp nhất 1.234 mm, tháng có lượng mưa cao nhất là tháng 8. Mùa khô, gió chủ yếu theo hướng đông bắc, nhưng vào mùa mưa, gió chủ yếu theo hướng tây nam. Nhiệt độ trung bình trong năm dao động trong khoảng 22 - 230C, biên độ nhiệt độ dao động trong ngày 8 - 90C
Kon Tum nằm trên khối nâng Kon Tum, vì vậy rất đa dạng về cấu trúc địa chất và khoáng sản. Trên địa bàn có 21 phân vị địa tầng và 19 phức hệ mắc ma đã được các nhà địa chất nghiên cứu xác lập, hàng loạt các loại hình khoáng sản như sắt, crôm, vàng, nguyên liệu chịu lửa, đá quý, bán quý, kim loại phóng xạ, đất hiếm, nguyên liệu phục vụ sản xuất vật liệu xây dựng,... đã được phát hiện[14].
Rừng Kon Tum phần lớn là rừng nguyên sinh có nhiều gỗ quý như cẩm lai, dáng hương, pơ mu, thông… tỉnh Kon Tum có khoảng hơn 300 loài thực vật, thuộc hơn 180 chi và 75 họ thực vật có hoa. Động vật nơi đây cũng rất phong phú, đa dạng, trong có nhiều loài hiếm, bao gồm chim có 165 loài, 40 họ, 13 bộ, đủ hầu hết các loài chim. Thú có 88 loài, 26 họ, 10 bộ, chiếm 88% loài thú ở Tây Nguyên. Bên cạnh các loài thú, Kon Tum còn có nhiều loại chim quý cần được bảo vệ như công, trĩ sao, gà lôi lông tía và gà lôi vằn

25/08/2015
Gỏi lá độc đáo ở Kon Tum - VnExpress Du Lịch

Mời các bạn thưởng thức

Món ăn vừa được công nhận top 10 đặc sản Việt Nam đạt giá trị ẩm thực châu Á lần thứ hai năm 2013 này có hương vị riêng biệt của núi rừng Tây Nguyên.

25/08/2015

Du Lịch Kon Tum

25/08/2015

Timeline Photos

Address

Kon Tum

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Du Lịch Kon Tum posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share

Nearby travel agencies


Other Tourist Information Centers in Kon Tum

Show All