Circuit Vietnam privé en 20 jours
https://circuitvietnam.com/circuit-vietnam-prive-en-20-jours.html
...............................................................
Les points forts du programme :
Itinéraire en bref :
Jour 1: Hanoi arrivée
Jour 2: Hanoi – visite de la ville – train de nuit pour Lao Cai
Jour 3: Lao Cai – Sapa – villages Lao Chai et Ta Van
Jour 4: Sapa – Montagne Ham Rong – village Cat Cat
– train de nuit pour retourner à Hanoi
Jour 5: Hanoi – Kenh Ga (Canal du Poulet) – Tam Coc (Baie d’Halong terrestre)
Jour 6: Tam Coc – baie d’Halong – croisière et nuit en jonque
Jour 7: Halong – Hanoi – Hue en avion
Jour 8: Hue – Cité Impériale – Tombeau royal de Tu Duc – croisière sur la rivière de Parfums
Jour 9: Hue – Da Nang – Hoi An – vieille ville de Hoi An
Jour 10: Hoi An – Terre Sacrée de My Son – excursion sur la rivière Thu Bon
Jour 11: Hoi An – Da Nang – Nha Trang en avion – visite de la ville
Jour 12: Nha Trang – journée libre à la plage
Jour 13: Nha Trang – journée libre à la plage
Jour 14: Nha Trang – Da Lat
Jour 15: Da Lat – Saigon (Ho Chi Minh ville) en avion
Jour 16: Saigon – visite de la ville
Jour 17: Saigon – temple Cao Dai – tunels Cu Chi
Jour 18: Saigon – My Tho – Can Tho
Jour 19: Can Tho – marché flottant Cai Rang – Saigon
Jour 20: Saigon – départ
https://circuitvietnam.com/circuit-vietnam-prive-en-20-jours.html
...............................................
NOUS CONTACTER POUR VOTRE VOYAGE AU NORD VIETNAM
......................................................
VOIR LES TÉMOIGNAGES SUR NOTRE AGENCE AGENDA TOUR VIETNAM
https://agendatour.com/temoignages.html
LIEN DE VOYAGE SUR MESURE ( VOYAGE À VOS ENVIES)
https://agendatour.com/voyage-sur-mesure.html
......................................................
Coordonnées de l'agence :
AGENDA TOUR VIETNAM
(Agence spécialiste du voyage au V
Voyage au Vietnam Laos Cambodge avec Agenda Tour Vietnam - Agence de voyage Francophone au Vietnam
Voyages au Nord Vietnam Plongez vous dans l’aventure et partez à la découverte du Vietnam du nordParcourez le nord du Vietnam en partant à la découverte de ses multiples ethnies et de ses paysages montagneux grâce à Agenda Tour et ses circuits nord Vietnam. Parfois encore appelé le Tonkin, le nord du Vietnam attire et fait rêver beaucoup d’entres nous. Partir à la découverte des différentes cultures, rencontrer les différentes tribus aux habits très colorés et admirer les rizières sont autant de raison de vous laisser convaincre par des voyage au nord Vietnam. Saviez vous que les différentes tribus qui peuplent le nord du Vietnam viennent pour la majorité de population exilées de la Chine qui fuyaient les persécutions ou bien encore la famine? Ces populations ont fait du Tonkin une région avec une culture à part entière riche en histoire et en aventures. Avec l’aide de nos guides locaux et fort de notre expérience nous vous proposons un voyage tout en couleurs et en émotions.
Cầu Long Biên
là cây cầu thép đầu tiên bắc qua sông Hồng nối hai quận Hoàn Kiếm với quận Long Biên của Hà Nội, do Pháp xây dựng (1898-1902), đặt tên là cầu Doumer, theo tên của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Dân gian còn gọi là cầu sông Cái hay cầu Bồ Đề (vì nó được bắt qua bến Bồ Đề thuộc huyện Gia Lâm). Hiện trên đầu cầu vẫn còn tấm biển kim loại có khắc chữ 1899 -1902 - Daydé & Pillé - Paris.
Xây dựng
Dự án xây dựng cầu được Toàn quyền Đông Dương thông qua ngày 4 tháng 6 năm 1897 và đến ngày 4 tháng 6 năm 1897 đã tiến hành đấu thầu và 6 công ty xây dựng cầu đường lớn của Pháp tham dự. Mỗi nhà thầu được phép đưa ra 2 dự án được gọi là dự án A và B, ông Fourès, Thống sứ Bắc Kì được cử làm Chủ tịch Hội đồng thẩm định các dự án. Cuối cùng, Hội đồng mở thầu đã chọn dự án B của công ty Daydé & Pillé với giá 5.390.794 franc Pháp. Cây cầu được thiết kế với kiểu dáng độc đáo do hãng Daydé & Pillé thiết kế [cần dẫn nguồn], giống với kiểu dáng của cầu Tolbiac ở quận 13, Paris trên tuyến đường sắt Paris - Orléans, Pháp. Nha công chính Đông Dương xây dựng phần cầu dẫn. Ngày 12.9.1898 diễn ra lễ khởi công xây dựng và sau hơn 3 năm (chính xác là 3 năm chín tháng) thì hoàn thành, dù kế hoạch dự trù phải mất 5 năm. Để tiến hành xây dựng cầu, người ta phải tuyển mộ hơn 3000 công nhân bản xứ và một đội ngũ khoản 40 giám đốc, kỹ sư, chuyên gia và đốc công người Pháp để điều hành công việc. Người ta đã dùng đến 30.000m3 đá và kim loại (5600 tấn thép cán, 137 tấn gang, 165 tấn sắt, 7 tấn chì). Tổng số tiền thực chi lên tới 6.200.000 franc Pháp, không vượt quá dự trù là bao.[1]
Cầu dài 2290m qua sông và 896m cầu dẫn, gồm 19 nhịp dầm thép đặt trên 20 trụ cao hơn 40m (kể cả móng) và đường dẫn xây bằng đá. Cầu dành cho đường sắt đơn chạy ở giữa. Hai bên là đường dành cho xe cơ giới và đường đi bộ. Đường cho các loại xe là 2,6m và luồng đi bộ là 0,4m. Luồng giao thông của cầu theo hướng đi xuôi ở phía trái cầu chứ không phải ở bên phải như các cầu thông thường khác.
Liên quan đến
Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam
nằm ở Hà Nội, trên phố Lý Thường Kiệt, gần trung tâm hồ Hoàn Kiếm và khu phố cổ. Bảo tàng này được dành riêng cho phụ nữ Việt Nam.
Bảo tàng mở cửa phục vụ công chúng từ năm 1995 và chỉnh sửa lại hệ thống trưng bày thường xuyên từ 2006 - 2010 nhằm tôn vinh phụ nữ Việt Nam.
Bên cạnh hệ thống trưng bày thường xuyên, Bảo tàng còn tổ chức nhiều cuộc trưng bày chuyên đề với phương pháp tiếp cận mới là nhân học xã hội, phản ánh sự phát triển và thay đổi của xã hội đương đại bằng các dự án hướng tới nhiều nhóm đối tượng khác nhau, đặc biệt là những phụ nữ, trẻ em bị thiệt thòi, yếu thế.
Lịch sử
Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam được thành lập năm 1987, trực thuộc Hội LHPN Việt Nam với chức năng nghiên cứu, lưu giữ bảo quản, trưng bày những di sản vật thể, phi vật thể về lịch sử, văn hóa của phụ nữ Việt Nam.[1]
Từ khi khánh thành năm 1995, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam đã trưng bày thành công rất nhiều triển lãm phục vụ hàng trăm nghìn khách trong nước và quốc tế mỗi năm. Bảo tàng cũng đã phát triển một bộ sưu tập hơn 25.000 tài liệu hiện vật liên quan đến phụ nữ Việt Nam.[2]
Cuối năm 2010, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam mở cửa trở lại hệ thống trưng bày thường xuyên sau 4 năm đóng cửa nâng cấp, chỉnh lý với 3 chủ đề: phụ nữ trong gia đình, phụ nữ trong lịch sử và thời trang nữ
Sử dụng đất bảo tàng làm quán cafe
80 m2 đất tại mặt phố Lý Thường Kiệt của Bảo tàng đã được chuyển thành quán cà phê với hợp đồng ngày 15 tháng 7 năm 2009 được ký giữa bà Nguyễn Thị Tuyết, giám đốc Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam thời kỳ đó ký kết với Công ty Cổ phần Văn Việt do bà Đào Bội Hương làm đại diện.
Tuy nhiên, sau khoảng gần 2 năm thực hiện hợp đồng liên doanh này, đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam mới ban hành quyết định về việc cho phép Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam thực hiện các hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực chuyên môn, khả năng đơn vị.
Trao đổi với phóng viên, bà Nguyễn Thị Bích Vân, giám đốc Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam cho rằng, “tất cả các hoạt độ
Bảo Tàng DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là tổ chức sự nghiệp trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, có chức năng nghiên cứu khoa học, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, phục chế hiện vật và tư liệu về các dân tộc; tổ chức trưng bày,trình diễn và những hình thức hoạt động khác nhằm giới thiệu, phổ biến và giáo dục về các giá trị lịch sử, văn hoá của các dân tộc trong và ngoài nước; cung cấp tư liệu nghiên cứu về các dân tộc cho các ngành; đào tạo cán bộ nghiên cứu, nghiệp vụ, quản lý về nhân học bảo tàng.
Kiến trúc
Công trình Viện Bảo tàng Dân tộc học do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh, người Tày thiết kế. Nội thất được thiết kế bởi nữ kiến trúc sư Véronique Dollfus (người Pháp). Bảo tàng gồm ba khu trưng bày chính:
Khu trưng bày trong tòa Trống Đồng: không gian trưng bày thường xuyên giới thiệu 54 dân tộc ở Việt Nam trải rộng trên 2 tầng của toàn nhà với sự bố trí nội dung tham quan rất logic. Ví dụ: Tầng 01: Khách tham quan sẽ được tìm hiểu về 54 dân tộc ở Việt Nam thông qua hình ảnh, vùng cư trú của họ. Sau đó, họ sẽ tiếp tục được đi vào chi tiết các dân tộc như: người Việt, người Mường,...; 2 không gian dành cho các trưng bày nhất thời, luôn luôn được đổi mới tuỳ theo chủ đề trưng bày. Ví dụ: Năm 2006, trưng bày "Cuộc sống ở Hà Nội thời bao cấp (1975-1986). Năm 2013, trưng bày một góc cuộc sống của sinh viên sống xa nhà học tập ở các thành phố lớn. Năm 2014 và 2015, trưng bày các tác phẩm ảnh về đời sống và con người dân tộc Tây Nguyên trong những năm 50 của nhiếp ảnh người Pháp tên Jean-Marie Duchage. Ngoài ra, tại tầng hai của toà nhà Trống Đồng, du khách còn được tham quan tìm hiểu về các dân tộc thiểu số khác ở Việt Nam như: Tày, Thái, Hmông, Dao,...dưới sự bố trí rất khoa học theo kiểu xuyên dọc theo đất nước. Ví dụ: Miền Bắc (ngay từ lối lên), miền Trung và Tây Nguyên (nằm ở giữa tầng hai về phía lối ra) và miền Nam (trước khi xuống tầng một).
Khu trưng bày ngoài trời: là một vườn cây xanh trong đó có 10 công trình dân gian với cá
Hồ Tây và những bí ẩn
Cách đây gần 200 năm, khi vãn cảnh Tây Hồ, nhà thơ Cao Bá Quát từng rung động trước cảnh sắc mỹ lệ của chốn “danh thắng đệ nhất kinh kỳ” ấy mà thốt lên rằng: Tây Hồ đích thực là nàng Tây Thi!
Quả thật, ai cũng biết Hồ Tây rất đẹp. Nhưng đằng sau cái long lanh sóng nước, đằng sau cái lãng đãng sương mờ ấy, Hồ Tây lại ẩn chứa biết bao điều bí ẩn lạ kỳ…
Phải nói rằng hiếm có nơi nào quy tụ nhiều truyền thuyết và thần thoại như ở Hồ Tây, mà mỗi truyền thuyết, mỗi thần thoại lại gắn liền với những địa danh trên hồ. Và nếu dạo một vòng quanh Hồ Tây, ta sẽ có cảm giác như dưới mỗi bước chân đi đều có một sự tích, một huyền thoại nào đó: Từ bến bắt thuồng luồng đến đảo cá vàng Kim Ngư; Từ cây muỗm Quán Trấn Vũ đến cây thị cổ thụ trước sân đình Quán La; Từ đầm Xác Cáo gắn liền với sự tích Lạc Long Quân diệt hồ ly tinh, cho đến đền Kim Ngưu giải thích cho câu chuyện Trâu Vàng dưới đáy hồ; Từ miếu thần Cẩu Nhi kể chuyện Cẩu Mẫu, Cẩu Nhi trong thời điểm Lý Công Uẩn dời đô, được vua phong làm Phúc thần và cho lập miếu thờ, đến bảy cây gạo huyền thoại, tương truyền là do bà Lạc phi – vợ của Lạc Long Quân – trồng để ghi dấu bảy trứng nở bảy rồng bay khắp nước no
Và tất nhiên, cũng không thể không nhắc đến rất nhiều đền, chùa, miếu, quán, là nơi thờ cúng các vị Phật – Đạo – Thần và danh nhân lịch sử, như Phủ Tây Hồ thờ Tiên chúa Liễu Hạnh; đền Quán Thánh thờ Huyền Thiên Trấn Vũ – một trong bốn vị thần trấn giữ kinh thành Thăng Long; chùa Thiên Niên thờ bà chúa dệt lĩnh Phạm Thị Ngọc Đô – thứ phi của vua Lê Thánh Tông; hay chùa cổ Trấn Quốc – trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long dưới thời Lý, Trần.
Chùa Trấn Quốc ven Hồ Tây
Có ý kiến cho rằng, đứng trước Hồ Tây người ta luôn thấy choáng ngợp trước cái mênh mông và rộng lớn. Nhưng đó không chỉ là cái bao la của khoảng cách dài – rộng, mà còn là chiều sâu văn hóa và bề dày của hơn 4000 năm lịch sử nước nhà.
Vậy, yếu tố nào khiến Hồ Tây đặc biệt đến thế, khiến hồn thiêng núi sông ngàn năm có thể lắng đọ